Nội san

Nhìn lại hiện thực trong hội họa

22 Tháng Năm 2011

Chủ nghĩa  Hiện  thực trong nghệ  thuật i chung, hội họa i riêng một  ngôi đền thiêng của nhiều nghệ sỹ. Ngôi đền y cũng  hay b c anh chàng  trẻ, hăng tiết vịt xúc phạm,  cũng bởi giới  hạn  của   khá  mông lung, và c tiêu  chuẩn   của không ràng  và  thể hiểu theo nhiều cách. G.Courbet (1819 - 1877) họa  sỹ Pháp  người mở ra trường phái Hiện thực đầu tiên, nhằm thay đổi tính lý tưởng hóa, luôn quay lại với quá khứ Hy - La của nghệ thuật Cổ điển và sự hư tưởng thái quá của nghệ  thuật Lãng mạn.Đối  với ông, không gì    mắt nhìn thấy không phải   hiện thực và không đáng v. Courbet đã đặc  tả một bộ phận   từ bụng   cho đến đùi  của phụ  nữ thành   một  tác phẩm, tất cả những  ai muốn  n về hiện thực đều chết khiếp. Khi đến Nga, nghệ  thuật Hiện  thực trở thành  một phương tiện hữu hiệu cho c họa sỹ trường  họa u động, khi hướng nghệ thuật về đời sống nhân n Nga. Song có một thời, nghệ  thuật Hiện  thực được quan niệm  một cách cực đoan, người ta coi hội  y   quá tuyệt  đẹp, đến mức nghệ  thuật ch m mỗi việc phản   ánh   sao cho thật giống.   i giống  tự nhiên  trở thành  tiêu  chuẩn  của nghệ thuật Hiện thực và chết nỗi i giống  đây được giới hạn trong một  số khu vực nhất định,  ngoài khu vực đó ra hình như không được  công nhận    hiện thực.  Tn  thực  tế, không nghệ   sỹ o thể m việc  y c như thế. T thực  ch  i học đầu  tiên của nghệ  thuật, không phải là cái đích  cuối cùng, và thể đi đến hiện thực bằng nhiều con đường, thay cho một  sự duy nhất đúng.

Ngay từ  đầu,  hội họa Hiện  thực Việt  Nam không rơi vào  giáo  điều.  Một   mặt  do  truyền thống  nghệ thuật phương Đông luôn mang tính tượng trưng, lấy quan sát, tâm tưởng thay cho trực họa, mặt khác  nghệ  thuật Việt Nam ảnh hưởng phương Tây đến đâu cũng chưa bao giờ trải qua cổ điển. Nhưng sự hạn hẹp cũng  đã có, một thời ngoài  sinh hoạt  tập thể của công nông binh, dường như họa  sỹ không dám v khác, cũng như các bức họa nặng về ngợi ca, không  một   ý kiến   nhân nào. Nếu như tranh trừu  tượng    nơi trú ẩn của nhiều tay kém tài, thì tranh hiện thực cũng đất sống của những  tay hội. Với những  bức tranh về chiến  đấu sản xuất hời hợt tả cái v bên  ngoài,  họ tham dự mọi  triển lãm và coi mình như thứ  nghệ thuật chính thống.

Khi thời của chủ nghĩa  đề tài qua đi, hội họa Hiện thực không hề mất giá trị, mở ra nhiều chiều, nhiều mặt hơn nữa.  Họa sỹ không phải   cái máy  ảnh  vụng  về, hiện thực không phải   những  cái tương tự với đời sống,  hiện thực bao gồm  cả những  nhận thức nhiều chiều về nó,  cả sự phê  phán và phủ nhận  với ý  nghĩa  một hiện  tượng  có thể   nhiều cách quan sát và trình  bày khác nhau. Một bức tranh tĩnh  vật không chỉ    lọ hoa đẹp, hoặc đĩa quả cốc chén được tả tài  tình, còn  là đời  sống  tự thân của đồ vật, nếp ăn ở của   gia chủ, và thái độ nghệ  thuật như thế nào đó. Một bức tranh phong cảnh tình  cảm thực tại của họa sỹ đối với cảnh  vật, đem đến  cái đẹp dị thường qua những  cảnh vật ta vẫn trông thấy hàng ngày. Đương nhiên, trước hết người ta cũng xem họa sỹ khả năng mô tả như thế nào. Cảm giác về vật chất trong  tĩnh vật và sự thay đổi  của trong ánh sáng.  Nét bút tạo mây mưa, cây cỏ,  hơi nước,  ánh sáng  trong tranh phong cảnh. Đương nhiên  sau đó   tâm trạng  của nghệ  sỹ hàm  chứa  trong từng  nhát bút. Từ hiện  thực vật thể đến hiện thực tâm lý và sự thống  nhất  của chính giá trị của hội họa hiện thực.  Bùi Xuân Phái  đã kể ra cả một  lai lịch   Nội cổ, khắc họa ấn tượng  về đời sống thị dân qua từng mái ngói, bờ tường,  cột điện, trong đó nỗi  lo lắng bâng khuâng về một  quá  khứ  đẹp  đẽ sắp mất  đi. Những bức chân dung của Nguyễn Sáng luôn cái đó tính   chất  số phận,   luôn lơ lửng câu hỏi tao ai? và mày   ai ?. Vào hội họa hiện thực không thể y nguyên  như đối tượng.  Họa sỹ  cắt xén, thêm bớt và thể   thế trở nên chân thực hơn. Nó bị phơi bầy, làm lộ cái   bản  chất.   Cái  này  mới  là hiện thực.  Hội  họa hiện thực  như vậy   thể làm  chết khiếp những tay tưởng rằng hiện thực chỉ tả.

Phát triển trong thời  n học đóng  vai trò  chính yếu trong n nghệ, lý luận về nghệ  thuật hiện  thực chủ yếu dành cho n học, n c lĩnh  vực khác lý luận y chưa khai triển được  ngôn ngữ chuyên ngành. Việc y dựng hình tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình không hẳn phù hợp với hội họa, vì hội họa không biểu hiện được quá trình và quan hệ nhân quả. Nếu ch khuôn hội họa vào một không gian và thời điểm duy nhất  thì  tự m hạn chế  khả năng biểu hiện  của . Thủ pháp  đồng hiện ra đời,   lẽ từ

          Tượng chân dung tổ, chùa Trăm Gian, thế k 18, gỗ phủ sơn.                                Tượng lăng mộ Thanh Hóa, thế k 18, đá.

hội họa hoành  tráng  Mehico, và được  hội họa Việt  Nam chấp nhận, nhằm tăng khả năng biểu  hiện hiện thực đa thời và đa chiều. Thủ pháp y thịnh  hành từ những m 1980, họa  sỹ thể v nhiều hình thể khác nhau không theo trật tự không gian và thời gian n tranh. Hình  ảnh chiến sỹ ra trận, cô i   nhà, một c chùa, một tượng  Phật, vài cây cỏ, thậm chí một khúc sông... tức rất nhiều hình ảnh vốn không cùng  lại được  v tổng hợp vào bức họa. Không gian ba chiều cũng không được n trọng nữa, về đại thể không gian tranh chuyển về hai chiều, và y từng chỗ  vẫn   ba chiều, hoặc hai chiều rưỡi. Nhưng quan trọng  nhất   vấn đề cần nói, cần biểu hiện  thì rất , và thực ra cũng    hiểu nhiều cách về một bức họa.

Thủ pháp đồng  hiện  đã thay đổi n bản hội họa Hiện thực Việt Nam, cũng được chấp nhận mọi  thế hệ họa sỹ, và m cho hội họa Hiện  thực cũng  gần  i hội họa Biểu hiện - Trừu tượng hơn. Cũng vào những m 1980 trở đi, dưới ảnh hưởng  của hội họa Siêu thực và Cực thực, một số họa  sỹ đã v hiện thực theo một tinh thần mới, như Lê Huy Tiếp và Đỗ Quang Em. Tất cả sự vật trong tranh của họ đều được vờn tỉa k càng như cầm  nắm được,  nhưng tinh thần bức  họa  lại không như vậy, v gì rất o giác  không sự thực chút nào. c hình  thể dường như đời sống  tự trong một không gian o tưởng  n hiện   thực.  Hiện thực nhiếp  ảnh cũng một  thủ pháp  khác,   tức họa  sỹ thoạt tiên chụp ảnh và v y nguyên như bức ảnh, sau đó họ thể v những  bức họa ganh đua với tính  hiện  thực của ống  kính   y  ảnh,  bức họa cũng   cảm  giác  lạ lùng  bởi đôi khi người ta không biết  họa sỹ đã v như thế nào.

Chưa bao giờ nghệ  thuật Hiện  thực mất đi giá trị,  mà chỉ kém đi khi người ta tự hạn chế mình  trong một khuôn mẫu   gọi hiện  thực. Phẩm  chất hiện  thực vốn trong mọi nghệ  thuật và thủ pháp,   ngôn ngữ, mục đích biểu hiện của  nghệ thuật  hiện thực.  Khả  năng của cũng mênh mông như đời sống,  chọn lọc nhưng không từ chối tất cả những   thuộc về  con người.

 

Phan Cẩm Thượng - 2007