Tin tức – Sự kiện

Xử lý những vấn đề về GDĐH đang được xã hội quan tâm

18 Tháng Mười Một 2011

Dự án Luật Giáo dục Đại học vừa được trình Quốc hội để xin ý kiến lần đầu và dự kiến sẽ được Quốc hội thảo luận chung vào ngày 14/11. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga đã có bài viết về dự thảo Luật này.

 

Dự thảo Luật Giáo dục Đại học gồm 12 chương, 67 điều. Mục tiêu nhằm thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động giáo dục đại học để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuẩn bị nhân lực cho nền kinh tế tri thức trong giai đoạn tiếp theo.

Qua thảo luận rộng rãi trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Giáo dục Đại học, trên cơ sở phân tích hơn 400 ý kiến đóng góp, ban soạn thảo Luật đã rút ra được bốn vấn đề lớn mà xã hội quan tâm và trông chờ dự thảo Luật có thể xử lý gồm: phân tầng đại học, xã hội hóa giáo dục, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo. Ban soạn thảo Luật đã tiếp thu ý kiến, cân nhắc kỹ lưỡng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn để đưa vào dự thảo luật những điều khoản bao quát tất cả những vấn đề này ở các mức độ khác nhau.

Phân tầng đại học, phân luồng chương trình đào tạo

Theo truyền thống, hệ thống các trường đại học của một nước phát triển bao gồm các đại học nghiên cứu, các đại học đa ngành theo hướng ứng dụng và các trường cao đẳng đào tạo nghề nghiệp cho kỹ thuật viên. Mỗi một loại hình trường có mục tiêu đào tạo khác nhau và mức độ đầu tư cũng khác nhau. Sự phân tầng đại học nhằm tránh việc đầu tư dàn trải, đồng thời tạo điều kiện đào tạo đội ngũ nhân lực hài hòa theo nhu cầu của xã hội. Khoản 5 Điều 10 dự thảo Luật đã nhấn mạnh:“Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học để có chính sách đầu tư, giao nhiệm vụ và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với vị trí, vai trò, năng lực bảo đảm chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục đại học”. Ở nước ta, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, sự phân biệt rạch ròi đâu là các trường đại học nghiên cứu, đâu là các trường đại học đa ngành ứng dụng rất khó khả thi. Một số trường đại học hàng đầu của nước ta có đào tạo sau đại học, phát triển nghiên cứu khoa học nhưng các hoạt động này chiếm tỷ trọng chưa cao trong tổng thể các hoạt động chung của trường. Đó là các đại học quốc gia, đại học vùng, một số trường trọng điểm, các đại học xuất sắc. Vì vậy trong giai đoạn từ nay đến 2020, bên cạnh các đại học theo hướng ứng dụng, chúng ta tiếp tục xây dựng các đại học phát triển theo định hướng nghiên cứu để trở thành các trường đại học nghiên cứu thực sự trong tương lai. Chương trình đào tạo của các đại học cũng dần được phân hóa theo định hướng nghiên cứu và định hướng nghề nghiệp tương ứng với hai loại hình trường này (Điều 24). Để từng bước thực hiện phân tầng đại học, dự thảo Luật đã nhấn mạnh: “Đầu tư ngân sách có trọng điểm để hình thành một số cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao thuộc ngành khoa học cơ bản, các ngành khoa học và công nghệ cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới”.

Việc nâng cao chất lượng các trường đại học của nước ta để trở thành những đại học đào tạo đa ngành theo hướng ứng dụng cũng như củng cố chất lượng đào tạo kỹ thuật viên của các trường Cao đẳng hiện nay không gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên việc phát triển các trường đại học theo định hướng nghiên cứu là một thử thách rất lớn. Để đưa các trường này vào quỹ đại phát triển đại học nghiên cứu thì việc đầu tư phát triển nghiên cứu khoa học trong trường là yêu cầu không thể thiếu. Dự thảo Luật qui định rõ các cơ sở giáo dục đại học có nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu khoa học, gắn đào tạo với nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và với doanh nghiệp để tạo ra tri thức, công nghệ, giải pháp mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội (Điều 37); Chính phủ ưu tiên đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học có tiềm lực mạnh về nhân lực nghiên cứu và triển khai ứng dụng (Điều 38).

Như vậy việc phân tầng đại học đã được xử lý trong dự thảo Luật theo hướng củng cố chất lượng đào tạo của các trường đại học theo định hướng ứng dụng và các trường cao đẳng đào tạo kỹ thuật viên đồng thời tập trung đầu tư phát triển các trường đại học theo định hướng nghiên cứu để thực sự trở thành đại học nghiên cứu trong tương lai. Các đại học nghiên cứu này có vai trò đặc biệt quan trọng để chuẩn bị nhân lực cho nền kinh tế tri thức khi nước ta hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xã hội hóa giáo dục đại học

Xã hội hóa giáo dục là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chủ trương này được cụ thể hóa trong dự thảo Luật Giáo dục Đại học. Theo đó “Nhà nước có chính sách ưu tiên khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm đầy đủ các điều kiện thành lập theo quy định; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi”  (Điều 10).

Để tránh các nhà đầu tư dựa và chính sách ưu tiên của nhà nước về giáo dục đào tạo để “vụ lợi”, dự thảo Luật cũng qui định “sau thời hạn ba năm, kể từ ngày quyết định cho phép hoạt động đào tạo có hiệu lực, nếu cơ sở giáo dục đại học không triển khai hoạt động đào tạo thì quyết định cho phép hoạt động đào tạo hết hiệu lực” (Điều 19).

Trong thực tế hiện nay, ở các cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập, đã xuất hiện vấn đề phân chia lợi nhuận mặc dù vẫn tuyên bố là phi lợi nhuận.

Đây là vấn đề được thảo luận tại nhiều diễn đàn và còn có nhiều ý kiến khác nhau. Để tránh tình trạng một cơ sở giáo dục đại học nào đó muốn lợi dụng danh nghĩa phi lợi nhuận để mưu cầu lợi nhuận, thì tại khoản 3 Điều 60 về quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học đã quy định: Phần tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học tư thục được dành một phần hợp lý để đầu tư cho hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của cơ sở giáo dục đại học, thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.

Mặt khác để đảm bảo sự phát triển lâu dài của nhà trường, dự thảo Luật qui định giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở giáo dục đại học tư thục và giá trị của các tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở giáo dục đại học tư thục là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển; Tài sản và đất đai Nhà nước giao cho cơ sở giáo dục đại học tư thục quản lý và tài sản cơ sở giáo dục đại học tư thục được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng phải được sử dụng đúng mục đích, không chuyển đổi mục đích sử dụng và không được chuyển thành sở hữu tư nhân dưới bất cứ hình thức nào; Việc rút vốn và chuyển nhượng vốn đối với cơ sở giáo dục đại học tư thục thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm sự ổn định và phát triển của cơ sở giáo dục đại học.

Xử lý vấn đề lợi nhuậnphi lợi nhuận như vậy là chặt chẽ và hợp lý. Nhà nước và xã hội không dựa vào lời tuyên bố của chủ đầu tư hay cơ sở giáo dục đại học là họ hoạt động vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận, mà dựa vào cân bằng thu chi tài chính trong hoạt động của nhà trường để có chính sách phù hợp. Với quy định đó, một mặt, Nhà Nước không cấm các cơ sở giáo dục đại học hoạt động vì lợi nhuận hợp lý, và mặt khác, có chính sách phù hợp, khuyến khích đối với cơ sở giáo dục đại học hoạt động không vì lợi nhuận.

Giao quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo

Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ sở giáo dục đại học là một yêu cầu khách quan, tất yếu và phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục đại học hiện nay. Vấn đề này được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các chương của dự thảo Luật. Tuy nhiên việc giao quyền tự chủ ngay lập tức ở mức độ như nhau cho các trường sau khi Luật Giáo dục Đại học ra đời là hoàn toàn không khả thi trong điều kiện hiện nay. Trong thực tế, năng lực quản lý và bề dày kinh nghiệm của các trường đại học ở nước ta còn khác biệt khá xa. Tinh thần tự chịu trách nhiệm của cơ sở còn chưa tốt trong xử lý mối quan hệ dân sự giữa người học và nhà trường. Mỗi khi có sự cố, người dân đều phải nhờ đến cơ quan quản lý nhà nước để được bảo vệ quyền lợi của mình.

Vì vậy việc giao quyền tự chủ cho các trường cần có lộ trình phụ thuộc vào 1) vị trí, vai trò, nhiệm vụ; 2) năng lực thực hiện quyền tự chủ; 3) cam kết trách nhiệm khi thực hiện quyền tự chủ và 4) kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Điều 28 quy định cụ thể  quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học gồm: 1) tổ chức và nhân sự; 2) tài chính và tài sản; 3) hoạt động đào tạo; 4) hoạt động khoa học và công nghệ, 5) hoạt động hợp tác quốc tế và 6) bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Dự thảo Luật cũng cho phép cơ sở giáo dục đại học tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh, tự chủ quyết định phương thức tuyển sinh và chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh.  

Quyền tự chủ đi kèm với tự chịu trách nhiệm của cơ sở. Trách nhiệm lớn nhất của cơ sở giáo dục đối với xã hội là bảo đảm chất lượng của sinh viên tốt nghiệp. Chất lượng này phụ thuộc vào từng trường. Do đó dự thảo Luật qui định cơ sở giáo dục đại học được in ấn phôi văn bằng, cấp văn bằng cho người học; công bố công khai các thông tin liên quan về văn bằng cho người học trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học (Điều 34). Như vậy nếu Luật Giáo dục qui định giá trị pháp lý của văn bằng do các trường cấp là như nhau thì trong dự thảo Luật Giáo dục Đại học giá trị văn bằng được cụ thể hóa thông qua chất lượng đào tạo gắn liền với tên tuổi của nhà trường.

Khi cơ sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực để thực hiện quyền tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế thì quyền tự chủ bị thu hồi; cơ sở giáo dục đại học vi phạm khi thực hiện quyền tự chủ thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.  

Hội đồng trường là thiết chế không thể thiếu để giao quyền tự chủ cho các trường. Điều 14 dự thảo Luật giáo dục Đại học bổ sung quy định về hội đồng trường đối với cơ sở giáo dục đại học công lập so với quy định tại Điều 52 của Luật giáo dục cho phù hợp hơn với thực tiễn giáo dục đại học Việt Nam và bảo đảm tính khả thi khi thực hiện như sau:“Hội đồng đại học, hội đồng trường được thành lập ở các cơ sở giáo dục đại học công lập. Chủ tịch hội đồng trường là hiệu trưởng hoặc giám đốc. Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể về hội đồng trường”.

Quản lý chất lượng đào tạo

Dự thảo Luật Giáo dục Đại học đã đưa vào những điều khoản giám sát chặt chẽ chất lượng đào tạo trong suốt quá trình sinh viên học tập tại trường. Sau hơn 10 năm thực hiện Luật giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành trên 200 chương trình khung các ngành trình độ cao đẳng và đại học. Qua thực tiễn cho thấy, thời gian xây dựng, thời gian phê duyệt và thời gian sử dụng chương trình khung khá dài, chương trình khung không cập nhật được tri thức khoa học, công nghệ mới, tiên tiến; làm giảm tính linh hoạt của các chương trình đào tạo và sự tự chủ của các trường trong phát triển chương trình đào tạo, vì vậy, dự thảo Luật giáo dục Đại học bỏ quy định về chương trình khung và thay bằng quy định về chuẩn tối thiểu kiến thực, kỹ năng tại khoản 3 Điều 32 như sau:“Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chuẩn tối thiểu về kiến thức, kỹ năng mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp; quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ;…”.

Để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học huy động ngày càng nhiều các nguồn lực đầu tư cho các điều kiện bảo đảm chất lượng, cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo hài hòa cơ cấu nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh của sinh viên Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, khoản 6 Điều 59 dự thảo Luật giáo dục đại học quy định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo”.

Chính phủ có chính sách đầu tư, chế độ đãi ngộ nhằm thu hút các nhà khoa học và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động tài trợ, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; Khuyến khích cơ sở giáo dục đại học đầu tư, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ với nước ngoài.

Song song với việc thiết lập các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, dự thảo luật cũng đưa ra khung pháp lý của việc tổ chức, hoạt động công tác kiểm định chất lượng giáo dục. Trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay, Nhà nước phải chịu trách nhiệm về hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, các trường chưa tự chủ hoàn toàn. Do đó quy định kiểm định chất lượng giáo dục đại học được thiết kế theo hướng khuyến khích, tự nguyện. Nếu cơ sở giáo dục đại học thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, thì sẽ được hưởng một số quyền lợi nhất định. Trong tương lai, khi cơ sở giáo dục đại học được tự chủ hoàn toàn và hệ thống kiểm định chất lượng đã phát triển đủ mạnh thì việc kiểm định chất lượng giáo dục là bắt buộc đối với mọi cơ sở giáo dục đại học để bảo vệ quyền lợi người học.

Trong phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành liên quan và các địa phương thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động giáo dục đại học để phát hiện, xử lý kịp thời những cơ sở vi phạm cam kết đảm bảo chất lượng đào tạo (Điều 64).

Như vậy, ngoài những điều khoản đảm bảo cho hệ thống giáo dục đại học hoạt động bình thường như lâu nay, dự thảo Luật Giáo dục Đại học đã thiết kế thêm những điều khoản mới nhằm xử lý những vấn đề lớn của ngành đang được xã hội quan tâm, tạo tiền đề cho hệ thống giáo dục đại học nước ta phát triển đúng hướng và bền vững. Những vấn đề lớn này được đưa vào dự thảo Luật ở chừng mực vừa phải để đảm bảo tính khả thi. Chúng ta không nên đặt kỳ vọng quá lớn lao vào một dự luật có thể giải quyết được triệt để tất cả mọi vấn đề bức xúc đặt ra trong thực tiễn. Chỉ nên đưa vào luật những điều khoản đã chín muồi mà kết quả của nó đã được kiểm nghiệm trong thực tế cuộc sống. Những vấn đề còn có nhiều ý kiến trái chiều cần được điều chỉnh bởi những văn bản dưới luật. Khi nội dung các văn bản này đã đi vào cuộc sống thì sẽ được bổ sung vào luật. Có như vậy luật mới mang tính ổn định và những vấn đề bức xúc trong cuộc sống mới được giải quyết một cách triệt để.

 

GS.TSKH. Bùi Văn Ga,

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,

Phó Trưởng ban thường trực Ban soạn thảo Luật Giáo dục Đại học

(Nguồn: Chinhphu.vn)