Tin hợp tác quốc tế

TỔNG QUAN HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở CHLB ĐỨC

07 Tháng Sáu 2012

TS. Nguyễn Văn Cường

 (University of Potsdam)

 

1. Một số thông tin chung

CHLB Đức là quốc gia có chế độ liên bang, giáo dục nằm trong thẩm quyền của mỗi bang. Việc tổ chức ngành giáo dục có những khác biệt giữa các bang, mỗi bang có bộ luật và hệ thống giáo dục riêng. Để phối hợp các hoạt động giáo dục của các bang, và đảm bảo sự thống nhất cần thiết, Hội nghị các bộ trưởng văn hoá giáo dục (viết tắt là KMK) và Uỷ ban Liên bang – Bang đã được thành lập (năm 1949 và 1970). Ở Đức, theo quy định của hiến pháp, toàn bộ ngành giáo dục chịu sự quản lý của nhà nước. Quyền thành lập các trường tư được đảm bảo thông qua những quy định đặc biệt.

         Nghĩa vụ bắt buộc đến trường (giáo dục phổ cập) được quy định trong hiến pháp các bang. Có sự phân biệt giữa nghĩa vụ học phổ thông (toàn thời gian) và nghĩa vụ học nghề. Nghĩa vụ học phổ thông kéo dài đến khi kết thúc năm thứ 9 đến trường (ở 4 bang cho đến năm thứ 10). Khái niệm „năm đến trường“ không được nhầm với khái niệm „bậc lớp“ (ví dụ: với một học sinh ở lại lớp hai lần, nghĩa vụ đi học toàn thời gian kết thúc ở cuối  lớp 7 hoặc lớp 8).  Nghĩa vụ học nghề là 3 năm, bắt đầu sau khi kết thúc nghĩa vụ đi học phổ thông nếu không học tiếp trung học cơ sở hay trung học phổ thông tại một trường giáo dục phổ thông.

Ngành giáo dục của một bang được quản lý trong một bộ riêng. Tên và phạm vi chức năng của mỗi bộ được từng chính phủ bang đó quy định, phổ biến là Bộ giáo dục và văn hóa. Bộ giáo dục và văn hoá là cơ quan chức trách cao nhất của một bang đối với ngành giáo dục bang đó. Bộ giáo dục và văn hoá cùng ban quản lý nhà trường chịu trách nhiệm cả việc lập kế hoạch lẫn công tác tổ chức hệ thống nhà trường. Quyền hạn và trách nhiệm ở các bang được phân chia theo cách: bộ giáo dục văn hoá chịu trách nhiệm về nhân sự đội ngũ giáo viên (GV) và nội dung công việc ở các trường, còn các địa phương chịu trách nhiệm đối với trang thiết bị, trường sở và vật chất.

 

Sanssouci (Cung điện mùa hè vua Phổ - Di sản văn hóa thế gới)

Lâu đài Cecilienhof – Di sản văn hóa thế giới (Nơi ký hiệp ước Potsdam 1945)

 

Chương trình giáo dục phổ thông do các bang quyết định. Ở bình diện liên bang, hiện nay đã ban hành chuẩn giáo dục các môn học. Các bang  xây dựng và ban hành chương trình khung riêng cho bang. Các trường dựa vào chương trình khung cần tự xây dựng chương trình dạy học riêng phù hợp với đặc thù của nhà trường. Điều này đòi hỏi GV phổ thông cần có năng lực phát triển chương trình dạy học chi tiết của môn học. Sách giáo khoa phổ thông do các nhà xuất bản tổ chức biên soạn dựa trên các chương trình đào tạo và sau khi được Bộ giáo dục thẩm định và cho phép thì sẽ được lưu hành trên thị trường. Các trường và GV có thể tự chọn sách giáo khoa cho mỗi môn học.

Trong lĩnh vực giáo dục đại học, các trường đại học Đức có tính tự chủ tương đối cao. Các chương trình đào tạo đại học do các trường tự xây dựng. Với sự đưa vào hệ thống kiểm định chất lượng, giáo dục đại học của Đức được kiểm định và đánh giá, bao gồm các hình thức đánh giá trong và đánh giá ngoài.

Lương GV ở nước Đức thuộc vào nhóm cao hàng đầu thế giới. So sánh quốc tế về lương GV của các nước OECD năm 2006 cho thấy, lương GV của Đức đứng hàng thứ 3 khi mới ra trường (sau Luxemburrg và Thụy sỹ), và đứng hàng thứ 4 sau 15 năm trong nhóm OECD và cao hơn mức lương trung bình của các nước OECD khoảng 30-40%. Trong đó cần lưu ý rằng giá sinh hoạt ở các nước như  Đan mạch, Anh, Thụy điển, Pháp cao hơn ở Đức từ 10-20%, trong đó lương GV của các nước này thấp hơn ở Đức từ 15- 40%. Ví dụ lương của GV THCS của Đức khoảng 37.000 EURO/năm khi mới ra trường và khoảng 45.000 EURO/năm sau 15 năm (lương chưa trừ thuế và bảo hiểm). Việc tăng lương giáo viên chủ yếu dựa vào năm công tác. Ở Đức không phân ngạch chức danh giáo viên  phổ thông  như một số nước khác như ở Anh.

2. Cấu trúc của hệ thống giáo dục

Ở CHLB Đức, nói chung từ cuối thế kỷ 19 cho đến ngày nay tồn tại một hệ thống nhà trường phổ thông phân hóa thành 3 nhánh cơ bản ở cấp trung học cơ sở (không kể loại hình trường đặc biệt), đó là: trường Hauptschule, trường Realschule và trường Gymnasium với ba loại bằng tốt nghiệp khác nhau. Kể từ những năm 1970, ở nhiều bang còn có thêm các loại hình trường Gesamtschule, là trường tích hợp của các loại trường nêu trên. Tính liên thông giữa các loại hình trường được đảm bảo về cơ bản khi thoả mãn các điều kiện được thỏa thuận.

Các trường đào tạo nghề tồn tại trong bậc trung học (Sekundarstufe II) bên cạnh trường gymnasium (gymnasiale Oberstufe). Hệ thống giáo dục phổ thông của Đức kéo dài 13 năm học. Trong xu hướng cải cách hiện nay, đa số các bang rút ngắn còn 12 năm học.

Trong thời kỳ nước Đức chia cắt sau chiến tranh, hệ thống giáo dục của Cộng hòa dân chủ Đức được cấu trúc theo một hệ thống thống nhất. Trong đó „Trường phổ thông kỹ thuật tổng hợp 10 năm“ (POS) dành cho tất cả học sinh phổ thông (không kể trường đặc biệt, trường chuyên). Sau khi kết thúc trường học này, chỉ khoảng 10% học sinh sẽ học tiếp lên „Trường phổ thông kỹ thuật tổng hợp nâng cao“ (EOS) kéo dài hai năm để có thể vào thẳng đại học sau khi tốt nghiệp. Đa số học sinh còn lại sẽ vào học trong hệ thống trường nghề (2 năm), một bộ phận vào các trường chuyên nghiệp, trường nghề có bằng trung học phổ thông (3 năm). Sau khi thống nhất nước Đức năm 1990, các Bang mới cải cách hệ thống giáo dục theo mô hinh chung của CHLB Đức.


Cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục ở CHLB Đức (KMK, 2009)

 

 

GXTX

 

GDTX

 

GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN

(Bồi dường kiến thức phổ thông, nghề nghiệp, khoa học với nhiều hình thức)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tuổi

 

19

18

17

16

15

 

 

 

16

15

14

13

12

11

10

9

8

7

6

5

4

3

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lớp

 

GD đạI học

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bằng nghề                         Quyền vào

nâng cao                            đại  học chung

Nghiên cứu sinh

Tốt nghiệp đại học

(Diplom, Bachlor,

Master, Thi quốc gia)

 

Diplom

Bachelor

 

ĐẠI HỌC TỔNG HỢP

ĐẠI HỌC KỸ THUẬT

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐẠI HỌC NGHỆ THUẬT
ĐẠI HỌC ÂM NHẠC

ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH

 

 

Viện

Nghề

GD Trung học PT , GD nghề

Trường chuyên nghiệp

Trường buổi tối,

Trường bổ túc

 

 

 

 

 

 

 

 

Bằng  nghề         Quyền vào ĐH chuyên ngành

Quyền vào       

 đại học           

liên quan        Quyền vào đại học chung

 

Trung học nghề

 

13

 

GYMNASIUM

(Trung học phổ thông, THPT  nghề, THPT chuyên ngành)

12

Trường nghề và xí nghiệp

(Hệ thống đào tạo nghề kép)

Trung học chuyên nghiệp nghề

Trung học chuyên nghiệp

11

 

 

 

 

 

 

10

 

 

 

 

 

 

 

 

Tốt nghiệp THCS (Realschule sau 10 năm hoặc Haupschlue sau 9 năm)

10

GD Trung học cơ sở

 

 

 

 

REAL-SCHULE

(Trường

thực tiễn)

 

 

9

 

Trường đặc biệt

 

HAUPTSCHULE

(Trường đại trà)

 

GESAMT-SCHULE (Trường tích hợp)

 

GYMNASIUM

(Trường chọn lọc)

8

7

6

 

Bậc định hướng

5

4

GD Tiểu học

 

Trường đặc biệt

 

 

TRƯỜNG TIỂU HỌC

3

2

1

 

GD Mầm non

 

Nhà trẻ dặc biệt

 

NHÀ TRẺ

(Tự nguyện)

                     

Nhà trẻ: Trẻ em từ 3 tuổi đến lúc tới trường có thể đi nhà trẻ cả ngày hay một phần của ngày. Việc đi nhà trẻ là tự nguyện. Ở một số bang còn có những cơ sở quá độ sang tiểu học như các lớp vỡ lòng (Vorklasse).

Trường tiểu học : Trường tiểu học gồm 4 lớp đầu tiên, ở bang Berlin và Brandenburg trường tiểu học có 6 lớp. Tất cả trẻ em đi học trường tiểu học. Nói chung giờ học bao gồm các môn Tiếng Đức, Toán, Tìm hiểu tự nhiên, Nghệ thuật, Âm nhạc và Thể thao. Giờ học ngoại ngữ được thực hiện ở tất cả các bang ở bậc tiểu học.

Bậc định hướng : Cấp định hướng bao gồm hai bậc lớp 5 và 6, hoặc là được xếp vào các trường cấp cao hơn (cấp định hướng phụ thuộc vào loại trường) hay tách khỏi chúng (cấp định hướng độc lập với loại trường). Nó phục vụ việc hỗ trợ và định hướng cho học sinh cho quá trình học tiếp.

Trường Hauptschule: là loại hình trường bắt buộc cho tất cả các học sinh sau tiểu học không đi học một loại trường câp cao hơn nào khác. Nó kết thúc với lớp 9, ở một số bang với lớp 10. Trường Hauptschule truyền đạt kiến thức giáo dục phổ thông như là nền tảng cho giáo dục nghề nghiệp thực tiễn.

Trường Realschule: dành cho học sinh có khả năng cao hơn so với so với trường Hauptschule, với các lớp từ 5 (hoặc 7) đến 10. Với bằng tốt nghiệp Realschule, nói chung học sinh có được nền tảng cho mọi loại ngành nghề và học sinh có quyền đi học trường phổ thông trung học chuyên ngành (Fachoberschule), Gymnasium chuyên ngành hay chuyển tiếp sang trường Gymnasium.

Trường Gymnasium: nói chung bao gồm 9 hay 8 bậc lớp (lớp 5 đến lớp 13 hay 12) hoặc 7 bậc lớp (lớp 7 đến lớp 12). Văn bằng tốt nghiệp trường Gymnasium được xem là chứng nhận đủ năng lực học tại các trường đại học.

Trường Gesamtschule: Trong loại hình trường này người ta kết hợp các loại hình trường khác nhau với hình thức tổ chức và nội dung khác nhau. Người ta phân biệt thành các trường Gesamtschule tích hợp (giờ học chung cho tất cả học sinh) và các trường Gesamtschule phối hợp (những loại trường trung học khác nhau trong cùng một cơ sở nhà trường).

Trường Gymnasium chuyên ngành (Fachgymnasium): Là loại hình trường Gymnasium gắn với ngành nghề trên cơ sở bằng tốt nghiệp Realschule hay một bằng tốt nghiệp tương đương. Sau 3 năm (lớp 11 đến 13) học sinh có được văn bằng chứng nhận đủ khả năng học tại tất cả các trường đại học.

Trường đặc biệt: các trường đặc biệt có các chương trình sư phạm và biện pháp hỗ trợ đặc biệt có tính đến đòi hỏi đặc thù của thanh thiếu niên khuyết tật. Các trường này được định hướng theo từng loại khuyết tật khác nhau và có những lớp học từ cấp tiểu học đến THPT (có trường có ký túc xá). Các cơ sở tương ứng cũng có trong phạm vi các trường Realschule, Gymnasium hay trường dạy nghề.

Trường buổi tối và trường bổ túc (Kollegs): Là các cơ sở tại đó, người lớn bằng "con đường đào tạo thứ hai" có thể nhận được bằng tốt nghiệp Hauptschule, Realschule hay bằng chứng nhận phổ thông đủ trình độ học đại học. Trong các trường buổi tối, giờ học diễn ra vào buổi tối, các học viên trong những năm đầu vẫn đi làm. Ở các trường bổ túc (Kollegs) người ta học để lấy bằng đủ tiêu chuẩn vào đại học, đó là các trường học toàn bộ thời gian, học viên không đi làm.

Hệ thống đào tạo nghề kép (song hành) : Hệ thống này được gọi là hệ thống kép (song hành), vì việc đào tạo được tiến hành tại hai địa điểm học: tại xí nghiệp và tại trường dạy nghề. Nó là bộ phận hạt nhân của giáo dục nghề nghiệp ở Đức; hơn 60% học sinh tốt nghiệp một khóa đào tạo nghề trong hệ thống này. Việc đào tạo trong từng nghề được thực hiện trên cơ sở những quy định về đào tạo (quy chế đào tạo của Liên bang). Hiện thời có gần 350 nghề đào tạo được công nhận trên cơ sở các quy định về đào tạo.

Trường trung học nghề (Berufoberschule):  cho đến nay chỉ tồn tại ở một số bang và cung cấp những người tốt nghiệp có  bằng tốt nghiệp trường trung học và đào tạo nghề khép kín hay 5 năm hoạt động nghề nghiệp khả năng lấy được chứng nhận đủ trình độ vào trường đại học  gắn với  chuyên ngành.  Với việc chứng minh các kiến thức trong một ngoại ngữ thứ hai có thể lấy chứng nhận đủ trình độ vào đại học chung. 

Trường trung học chuyên nghiệp (Fachoberschule): Được xây dựng trên cơ sở bằng tốt nghiệp trường Realschule hay một bằng tương đương được công nhận. Việc học toàn bộ thời gian kéo dài ít nhất 1 năm. Hình thức học bán thời gian có thể kéo dài đến 3 năm. Bằng tốt nghiệp được coi là hợp lệ để vào học các trường Đại học chuyên ngành (Fachhochschule)

Trường chuyên nghiệp nghề - Berufsfachschule : Trường chuyên nghiệp nghề là các trường học toàn thời gian, ít nhất phải học hết thời gian một năm. Nói chung, người ta có thể tự nguyện học sau khi đáp ứng được nghĩa vụ học phổ thông để chuẩn bị cho nghề hoặc để đào tạo nghề toàn phần mà không được đào tạo nghề trước đó. Nó kết thúc bằng một kỳ thi tốt nghiệp; bằng tốt nghiệp này tương ứng với bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, tương đương bằng tốt nghiệp Realschule. Học sinh tốt nghiệp có thể đạt được bằng tốt nghiệp trong một nghề đào tạo song hành được công nhận.

Trường chuyên nghiệp (Fachschule) : Trường chuyên nghiệp được học sinh tự nguyện lựa chọn sau kết thúc một khóa đào tạo nghề và trải qua kinh nghiệm thực tế, một phần cả sau nhiều năm kinh nghiệm thực tế do cần chứng minh năng khiếu chuyên môn đặc thù. Chúng cung cấp sự đào tạo chuyên môn rộng trong nghề (ví dụ như trường thợ cả, trường kỹ thuật viên). Thời gian học từ nửa năm đến 3 năm, nếu học toàn bộ thời gian.

Đại học tổng hợp, Đại học tổng hợp kỹ thuật, Đại học kỹ thuật: Đây là loại hình trường ĐH truyền thống ở Đức. Tại đây một danh mục rộng rãi các môn học được cung cấp. Chúng gắn kết các nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu. Các trường này có quyền đào tạo tiến sĩ.

Các trường Đại học Nghệ thuật, Âm nhạc, Thần học và Sư phạm : Tại những trường ĐH Nghệ thuật và Âm nhạc, sinh viên được đào tạo về nghệ thuật và biểu diễn cũng như các môn về âm nhạc. Tại các trường ĐH thần học, người ta đào tạo các nhà thần học. Tại các trường ĐH Sư phạm (hiện nay chỉ còn ở một số  bang) các GV tiểu học, GV trường Hauptschule và Realschule, đôi khi cả GV cho các trường đặc biệt được đào tạo.

Đại học chuyên ngành (Fachhochschule): Đại học chuyên ngành và Đại học chuyên ngành quản lý có nhiệm vụ thông qua việc đào tạo gắn kết mạnh với ứng dụng để chuẩn bị cho các hoạt động nghề nghiệp đòi hỏi sự vận dụng các kiến thức và phương pháp khoa học.

Giáo dục thường xuyên: là sự đào tạo tiếp tục hay bồi dưỡng (cả học không chính quy) sau khi kết thúc một giai đoạn đào tạo có thời gian kéo dài khác nhau. Ở đây người ta phân biệt ra hai lĩnh vực chủ yếu: đào tạo tiếp phổ thông và đào tạo tiếp nghề nghiệp. Đối với cả hai lĩnh vực đào tạo tiếp có các chương trình của các trường ĐH và các cơ sở đảm trách tự do về đào tạo tiếp cũng như chương trình học từ xa. Lĩnh vực đào tạo tiếp được đặc trưng qua sự tự nguyện tham gia, tính đa dạng của chương trình học và của cơ sở đào tạo.

3. Một số vấn đề của hệ thống giáo dục

3.1. “Cú sốc PISA”

PISA (Programme for International Student Assessment) là Chương trình quốc tế đánh giá thành tích học sinh. Các nghiên cứu PISA được tiến hành kể từ năm 2000 cứ ba năm một lần. Người ta nghiên cứu thành tích của học sinh 15 tuổi (tuổi kết thúc giáo dục phổ cập ở đa số các nước). Trong các bài kiểm tra của PISA, tri thức trong chương trình giảng dạy không phải là điều chính yếu mà là khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Ba nghiên cứu PISA đầu tiên có trọng tâm đánh giá khác nhau: khả năng đọc trong PISA 2000, toán học trong PISA 2003 và khoa học tự nhiên trong PISA 2006. Loạt thứ hai các nghiên cứu sẽ được thực hiện trong các năm 2009 (khả năng đọc), 2012 (toán) và 2015 (khoa học tự nhiên). Tham gia vào PISA 2006 có 57 nước và cho đến nay dã có sự tham gia của trên 9 triệu học sinh.

Kết quả PISA 2000 đã mang đến sự bất ngờ cho nước Đức, và người Đức gọi là “cú sốc PISA”, vì thành tích của học sinh Đức xếp ở hạng trung bình và dưới mức trung bình của OECD, trong khi người Đức vẫn tin rằng nền giáo dục Đức có chất lượng tốt, tỷ lệ với mức đầu tư cao cho giáo dục. Ngoài ra, PISA cũng chỉ ra rằng thành tích học tập của học sinh Đức phụ thuộc rất nhiều vào nguồn gốc xã hội của cha mẹ, trong đó con em các gia đình có thu nhập và trình độ thấp và những học sinh có nguồn gốc nhập cư có thành tich học tập thấp hơn. Sự phân luồng sớm đối với trẻ em từ mười tuổi ở bậc trung học cơ sở ở Đức theo các loại hình trường khác nhau bị phê phán là góp phần dẫn đến sự thiếu bình đẳng về cơ hội với các trẻ em, đặc biệt trẻ em từ các gia đình nghèo và người nhập cư. Trong đó học sinh trường Hauptpschule có thành tích kém nhất và được coi là thiếu cơ hội phát triển so với học sinh các loại trường khác.

“Cú sốc PISA” đã trở thành một “cú híc” quan trọng cho cuộc cải cách giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông trong toàn liên bang Đức. Những cố gắng cải cách giáo dục phần nào đã được phản ánh trong kết cua PISA 2003 và 2006 khi kết quả xếp hạng của học sinh Đức có được cải thiện từng bước mặc dù chưa nhiều.

3.2. Các vấn đề giáo dục Đức qua báo cáo của OECD

Báo cáo „Nhìn về giáo dục“ được OECD công bố năm 2007 đã chỉ ra nhiều khiếm khuyết cơ bản của hệ thống giáo dục Đức:

-          Trong 10 năm qua, hệ thống giáo dục Đức tụt hạng trong so sánh quốc tế các hệ thống giáo dục từ bậc 10 xuống bậc 22. Do thiếu lực lượng tốt nghiệp đại học, nước Đức ngày nay không đủ khả năng thay thế những kỹ sư đang chuẩn bị về hưu bằng những người tốt nghiệp đại học trẻ tuổi. Điều này cũng tương tự đối với đội ngũ giáo viên.

-          Ở Đức tỷ lệ kỹ sư thấp so với các nước OECD. Cứ 1000 người Đức chỉ có 32 kỹ sư của một niên khoá tốt nghiệp. Ở nhiều nước OECD con số này là 44. Điều tương tự cũng đúng với các ngành khoa học tự nhiên.

-          Tỷ lệ tú tài thấp và tỷ lệ những người bỏ ngang đại học cao: Trong phân tích hàng năm về các hệ thống giáo dục người ta còn chỉ trích về tỷ lệ tú tài thấp và tỷ lệ bỏ ngang đại học cao. Lời khen chỉ có ở hai điểm:  ở những người bảo vệ tiến sĩ, thì Đức thuộc về nhóm đứng đầu quốc tế và nước Đức là một địa điểm du học yêu thích đối với sinh viên nước ngoài.

-          Thiếu bình đẳng về cơ hội: ở Đức con đường học vấn lệ thuộc rất nhiều vào nguồn gốc xã hội. Tỷ lệ con cái của những gia đình mà cha mẹ có trình độ từ đại học trở lên trong số các sinh viên đại học gấp 2,3 lần con số này trong tỷ lệ dân cư nói chung.

Cùng với kết quả của PISA, báo cáo của OECD về giáo dục cũng như hàng loạt những nghiên cứu đánh giá trong nước trong những năm qua là cơ sơ quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách giáo duc xây dựng những chương trình cải cách giáo dục. Giáo dục trở thành chủ đề quan trong của các Đảng phái chính trị trong tranh cử quốc hội. Từ năm 2000 hàng loạt các dư án và chương trình cải cách được thực hiện. Có thể kể ra một số xu hướng cải cách giáo dục phổ thông như sau:

-          Giảm thời gian học phổ thông xuống 12 năm để rút ngắn thời gian học phổ thông nhằm khuyến khích học sinh học lên tú tài và đại học,

-          Cải cách hệ thống trường học theo xu hướng giảm bớt sự phân hóa ngoài quá sớm ở bậc trung học cơ sở, loại bỏ loại hình trường Hauptschule,  nhằm tăng cường cơ hội bình đẳng giáo dục cho học sinh,

-          Xây dựng chuẩn năng lực các môn học phổ thông ở bình diện liên bang. Xây dựng chương trình khung mới ở các bang dựa trên chuẩn môn học,

-          Thực hiện hệ thống đảm bảo chất lượng trường học, đánh giá và kiểm định chất lượng trường học định kỳ,

-          Thực hiện kỳ thi tốt nghiệp tập trung (cấp bang) đối với bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông,

-          Tăng cường bồi dưỡng GV.

Tài liệu tham khảo

 

1. Bellenberg, G.: Ausbildung von Lehrerinen und  Lehrernin Deutschland. Opladen 2003.

2.  European Association for Quality Assurance in Higher Education: Standards and Guidelines for Quality Assurance in the European Higher Education, Area.  Helsinki, 2005.

3. Habel, W.; Wildt, J.: Gestufte Studiengänger – Brennpunkte der  Lehrerbildungsreform. Bad Heilbrunn/obb 2004.

4. Hansel, T. : Lehrerbildungsreform . Herbolzheim 2002.

5. Kraler, C.; Schratz, M. : Wissen erwerben, Kompetenzen entwickeln: Modelle zur kompetenzorientierten Lehrerbildung . Waxmann 2008.

6. Reich, K.:  Lehrerbildung konstruktivistisch gestalten: Wege in der Praxis für  Referendare und Berufseinsteiger . Belt 2009.

7. http://www.akkreditierungsrat.de/

8. http://www.bildungsserver.de

9. http://www.hrk.de/de/home/home.php

10. http://www.kmk.org/home.html

11. http://www.uni-potsdam.de/

12. http://www.bildung-brandenburg.de/fortbildungsnetz.html