Hà Thị Thanh Xuân [*]
Tuồng Đào Tấn là một loại hình nghệ thuật vừa bác học lại vừa mang tính dân gian gần gũi với quần chúng. Bao thế hệ nối tiếp nhau trên mảnh đất này vẫn ra sức gìn giữ, trau chuốt loại hình nghệ thuật Tuồng để trở thành nét văn hóa đặc thù của riêng quê hương Bình Định.
Tuồng Đào Tấn là đỉnh cao của của nghệ thuật Tuồng Bình Định. Phong cách Tuồng Đào Tấn là một thể thống nhất từ tư tưởng đến cấu trúc kịch bản, từ văn học Tuồng đến nghệ thuật biểu diễn, từ âm nhạc ca hát đến vũ đạo và mỹ thuật sân khấu,… Đào Tấn đã khai thác những nét ưu tú của Tuồng cung đình rồi pha trộn với Tuồng Bình Định thành phong cách riêng đặc trưng của mình. Nói riêng trong âm nhạc và ca hát, Đào Tấn đã Tuồng hóa một số làn điệu dân ca và điệu lý, đồng thời tăng cường điệu nam, điệu khách, điệu xướng,… Điều này không chỉ thể hiện ở số lượng mà còn thể hiện trong tính chất của các làn điệu cơ bản. Từ một làn điệu nào đó có thể biến ra nhiều thể loại khác nhau bằng thủ pháp luyến láy, nâng hay hạ hơi, thay đổi trường độ hoặc tiết tấu để phù hợp với tính cách nhân vật,…Vì vậy, làn điệu Tuồng Đào Tấn rất phong phú và đa dạng, số lượng các làn điệu hát được gia tăng trong mỗi vở so với Tuồng trước đó. Sự gia tăng này đáng kể tới mức có nhà nghiên cứu xem Tuồng Đào Tấn là Tuồng hát.
1. Một số làn điệu chính trong Tuồng Đào Tấn
Tuồng Đào Tấn có hai loại làn điệu chính là: Hát Khách và Hát Nam.
Hát Khách (còn gọi là hát Bắc, hát Phú lục, Bắc xướng) là một trong những làn điệu diễn tả được nhiều cung bậc tình cảm trong sâu khấu Tuồng. Hát Khách thường cấu trúc theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang tính chất hùng hồn, mạnh mẽ, khoan thai, vui vẻ. Hát Khách được chia ra làm nhiều loại như sau: Hát Khách thường, Khách phú lục, Khách hồn.
Hát Nam được dùng khi tình cảm của nhân vật lên tới cao trào trong tình huống kịch. Các làn điệu Hát Nam: Nam bình, Nam Ai, Nam Xuân, Nam Xuân nữ. Nếu như tính chất của nam xuân là vui, nam ai là sầu thảm thì tính chất của nam xuân nữ là buồn man mác.
2. Đặc điểm âm nhạc của làn điệu Hát Khách và Hát Nam
Thang âm
Trong âm nhạc Tuồng, việc sử dụng thang 5 âm để hình thành và phát triển cấu trúc giai điệu được xem là rất phổ biến. Qua khảo sát một số hệ thống làn điệu, chúng tôi nhận thấy hầu hết các làn điệu chính của Tuồng nói chung và Tuồng Đào Tấn nói riêng đều được xây dựng trên thang năm âm: hò – xừ – xang – xê – cống (tức là Đồ – Rê – Pha – Son – La). Các âm đó được sử dụng để sáng tạo thành giai điệu của làn điệu.
Ví dụ câu Hát Nam: SƠN HẬU (Trích)
Giai điệu
Giai điệu Tuồng phụ thuộc rất nhiều vào thanh dấu của lời thơ (huyền, sắc, hỏi ngã, nặng). Ví dụ: dấu sắc sẽ nằm ở những nốt cao, dấu nặng nằm ở những nốt thấp,… Việc phân chia câu trống, mái cũng ảnh hưởng đến đường đi của giai điệu. Câu trống mang tính chất mạnh mẽ nên thường nằm ở âm khu cao và âm khu trung, trong khi đó câu mái mang tính chất mềm mại hơn nên thường nằm ở âm khu trung và âm khu thấp.
Ngoài những giai điệu chính viết theo lời thơ, trong Tuồng còn có các âm luyến láy đa dạng, sự xuất hiện của những âm này góp phần làm nên ngữ khí, bắt nhịp được được hơi thở và đem lại nhiều dư vị cho mỗi chữ nhạc. Nhận thấy trong các làn điệu Tuồng Đào Tấn, đường nét giai điệu chủ yếu đi từ thấp đến cao và từ cao xuống thấp, bình ổn theo hình làn sóng, tạo sự uyển chuyển và mềm mại cho câu hát. Ví dụ trích một câu trong vở Hộ sanh đàn, làn điệu này có cấu trúc một câu trống và một câu mái, giai điệu chuyển động lượn sóng có lắng đọng lẫn cao trào.
Tiết tấu
Với các làn điệu Tuồng, nhịp điệu giữa thơ và nhạc có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhịp thơ có tác động và chi phối tới nhịp nhạc, điều đó hòa quyện vào nhau tạo nên một thể thống nhất trong Tuồng. Tiết tấu trong thể loại Tuồng nói chung và Tuồng Đào Tấn nói riêng thường không có quy tắc rõ ràng, còn phụ thuộc vào cách thể hiện kỹ thuật hát của diễn viên, người hát có thể co hoặc giãn tiết tấu để phù hợp với ngữ cảnh, cảm xúc của nhân vật,…Bởi vậy, việc xác định tiết tấu của bài chỉ mang tính chất tương đối.
Làn điệu Tuồng thường viết ở nhịp 4/4, 2/4, có tiết tấu đảo phách và nghịch phách rất nhiều.
Cấu trúc
Cấu trúc của Tuồng Đào Tấn mang tính chất âm dương đăng đối, hài hòa giữa vế trống và vế mái. Vế trống có đặc điểm sáng khỏe, mạnh mẽ. Vế mái mang tính chất mềm mại và trữ tình hơn. Trong một câu hát, vế trống xuất hiện trước, vế mái xuất hiện sau.
Làn điệu Hát Khách
Hát Khách phân chia trống, mái. Vế đầu là vế trống, vế thứ 2 là vế mái vế thứ 3 là vế trống và vế thứ 4 là vế mái. Nếu một người hát thì gồm có 2 câu và 4 vế, hai người thì có 4 câu và 8 vế.
Làn điệu Hát Nam
Trước khi Hát Nam bao giờ cũng phải chuyển điệu từ Nói Lối sang Hát Nam nhằm mục đích báo hiệu cho dàn nhạc biết để chuyển điệu, theo chuyên môn người ta gọi là vào thủ, ra vĩ. Khi vào thủ ra vĩ, vế đầu tiên của Hát Nam bao giờ cũng phải lặp lại 2 chữ cuối hoặc 6 chữ cuối của vế nói cuối cùng của sắp lối. Ví dụ sắp lối của Lan Anh trong vở Tuồng Hộ sanh đàn:
Nói lối: Vì vương mang gánh nghĩa, gánh tình
Phải lịu địu tay bồng, tay ẵm
Chuyển Hát Nam: Lịu địu tay bồng, tay ẵm
Dõi trông người biển thẳm non xanh.
3. Đặc trưng nghệ thuật của Tuồng Đào Tấn
Nghệ thuật Tuồng Đào Tấn là đỉnh cao của Tuồng Bình Định, mang nét đặc trưng so với các vùng khác như: Tuồng miền Bắc, Tuồng Cung đình Huế,…
Tuồng miền Bắc thiên về những vấn đề lịch sử chính thống, gắn với cuộc đời những anh hùng dân tộc, mang tính chất sử thi - anh hùng ca. Tuồng Bắc không thiên về sự điêu luyện trong cách hát nhưng vẫn tinh tế. Vì thế, không khí và đời sống diễn ra trong Tuồng Bắc gần gũi với cuộc sống đời thường.
Tuồng cung đình Huế thiên về đề tài quân quốc, ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo, văn chương bác học. Các vở diễn điêu luyện, mang tính chất nghi lễ uy nghiêm và đầy cảm xúc ngưỡng vọng. Nghệ thuật hát mềm mỏng, gần gũi với những làn điệu ca Huế trữ tình. Nghệ thuật Tuồng cung đình Huế đẹp, giải trí trí tuệ và cao sang.
Tuồng Đào Tấn đề cao chủ nghĩa yêu nước và tinh thần thượng võ, những lớp diễn ưu tiên vũ đạo, phô diễn kỹ năng võ thuật. Bố cục trong các tác phẩm Tuồng Đào Tấn gọn gàng, phần lớn chỉ có một hồi, trong mỗi vở không giới thiệu dài dòng như Tuồng truyền thống. Đào Tấn đã thúc đẩy nghệ thuật Tuồng lên đỉnh cao mới, có những bước tiến và sự cách tân vượt bậc so với Tuồng truyền thống.
Thơ văn
Thứ nhất, mang ý nghĩa thời sự đất nước, tiếp cận đời sống hiện thực.
Theo giáo sư Trần Đình Hượu cho rằng: “Đào Tấn làm cho Tuồng ra khỏi thời kì nói chuyện quân quốc mà đi vào chuyện nhân tình thế sự bằng những câu văn vừa hợp cảnh, hợp tình, vừa trang nhã, mỹ lệ. Đến Đào Tấn, văn chương Tuồng mới có địa vị vững chắc trong văn học”. Những vở Tuồng của ông gợi liên tưởng về thế sự, đồng thời bộc lộ nỗi niềm của tác giả. Tính bi kịch của Tuồng cổ được Đào Tấn xử lý tinh tế, đan xen yếu tố hài kịch của Tuồng đồ để thể hiện cái hài tư tưởng, bộc lộ sâu sắc bản chất xã hội thời bấy giờ đậm chất bi hài kịch.
Thứ hai, chú trọng xây dựng tính cách nhân vật.
Đào Tấn thổi hồn vào nhân vật của mình, tạo thành những hình tượng bất hủ như: Trương Phi, Lan Anh, Tiết Cương,… tiêu biểu cho tính cách tốt đẹp, thấm đượm tình người. Không những thế, ông còn tạo dựng những tính cách phản diện khó quên, cuốn người xem vào trạng thái căm uất hạng người như: Tiết Nghĩa, Trụ vương,... Cái xấu, cái ác bộc lộ trong từng lời thoại, lột tả tính cách rõ nét, hiện ra chân tướng từng nhân vật một cách sống động.
Thứ ba, đề cao tính tự sự - trữ tình.
Những lớp Tuồng đặc tả tâm trạng, những câu hát trong Tuồng Đào Tấn đã trở thành mẫu mực cho lớp hậu sinh học tập. Ông được gọi là “trạng nguyên văn Tuồng”, “ông thánh của nghệ thuật hát bội” chính vì những sáng tạo đầy nghệ thuật, mạnh dạn cách tân cả bố cục, nhân vật, ngôn ngữ kịch bản… đạt đến đỉnh cao, vừa uyên bác vừa tài hoa, tinh tế, kỹ lưỡng đến từng lời, từng chữ. Nhân dân đam mê Tuồng Đào Tấn bởi họ tìm được ở đó nhiều giá trị nhân văn. Sống trong xã hội phong kiến, nhân dân chịu ảnh hưởng nặng nề bởi hệ tư tưởng Nho giáo Tam cương, Ngũ thường,… Bước vào thế giới nghệ thuật của Đào Tấn, họ tìm được những gì mình mong ước.
Thứ tư, ngôn ngữ giàu hình tượng, mang đậm tính nhạc điệu.
Ngôn ngữ Tuồng Đào Tấn mượt mà, giàu hình tượng, đậm tính nhạc điệu. Đào Tấn đặc biệt chú trọng đến sự linh diệu của ngôn từ, diễn tả khúc chiết, lắng đọng. Ví dụ trong vở Tuồng Trầm hương các, để lột tả vẻ đa tình của Trụ Vương, Đào Tấn diễn tả đôi câu:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm động đào sương giăng.
Hay trong vở Hộ sanh đàn, để nói nên hoàn cảnh nghiệt ngã và tâm trạng của Lan Anh trên bước đường đi tìm cứu chồng bị nạn, Đào Tấn viết:
Gió lay muôn cội tùng xào xạc
Núi nhuộm màu thu cảnh tái tê.
Nghệ thuật Âm nhạc
Thứ nhất, mở rộng các làn điệu.
Tuồng Đào Tấn giàu có về làn điệu. Đào Tấn là người đưa nhiều làn điệu Lý, Hát Nam vào Tuồng như điệu lý Thượng mà cô gái Thượng Hồ Nô hát trong Hộ sanh đàn. Đào Tấn đã sáng tác ra bài Gia ban, là loại bài lớn trong Tuồng.
Thứ hai, sáng tạo nhiều kỹ thuật hát.
“Kỹ thuật láy búng, áy rúc, láy hột, láy sa hầm và màu, mè, ý, chỉ,… đều do trường phái Đào Tấn đề xướng” . Tuồng Đào Tấn có thêm sự tiếp thu từ lối hát ả đào ở miền Bắc, kết hợp với cơ sở dân ca - dân vũ của mình và sáng tạo làm cho nó thăng hoa, phát triển rực rỡ. Đào Tấn còn đưa múa cung đình, múa bài bông vào Tuồng làm giàu ngôn ngữ biểu diễn. Không những thế, ông còn đi sâu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu các làn điệu, sáng tác thêm phần âm nhạc cho các vở diễn qua các làn điệu hát Tuồng như Giá Ban, Quỳnh Tương…
Thứ ba, hệ thống hóa nghệ thuật âm nhạc.
Ông rất quan tâm đến việc hệ thống hoá nghệ thuật âm nhạc. Ông đã viết "Chương khúc điệu" cho Tuồng. Với ông, chiếc trống chầu là cầu nối giữa sân khấu và khán giả. Người đánh chầu theo "đả cổ pháp" của Đào Tấn, là người không chỉ làm nhiệm vụ khen chê, phê phán, mà chủ yếu là hỗ trợ cho diễn xuất và kích thích cảm ứng của người xem. Điều đó thể hiện rõ trong các tác phẩm của Đào Tấn như vở Tuồng Khuê các anh hùng hay vở Sơn Hậu.
Nghệ thuật biểu diễn
Thứ nhất, chất võ trong múa Tuồng.
Tuồng Đào Tấn được ra đời và sống trên một mảnh đất có truyền thống thượng võ, bởi vậy hành động múa và lối diễn xuất thể hiện chất võ Bình Định mạnh mẽ. Sự kết hợp nghệ thuật Tuồng và võ Bình Định đã đưa phong cách Tuồng Đào Tấn lên một tầm cao mới, độc đáo hơn so với cách diễn Tuồng của các địa phương khác. Theo Đào Tấn, muốn là người diễn viên giỏi cần phải biết võ, do đó các nghệ sĩ hát Tuồng ở Bình Định phải học võ. Khán giả thưởng thức tác phẩm của ông luôn được mãn nhãn với những thế võ cổ truyền đẹp mắt, kịch tính cũng vì vậy mà được đẩy lên cao.
Thứ hai, mặt nạ độc đáo.
Mặt nạ Tuồng Đào Tấn có tính khu biệt và sáng tạo riêng, nhưng vẫn dựa trên cơ sở những quy ước chuẩn mực của Tuồng như: Kép văn, Kép võ, Kép nịnh, kép con, kép vua, kép văn pha võ…
Bình Định là cái nôi nuôi dưỡng nghệ thuật Tuồng. Trải qua nhiều biến thiên, Tuồng Đào Tấn vẫn còn đó nguyên vẹn bản sắc, trở thành món ăn tinh thần của người dân nơi đây và được coi như báu vật của nghệ thuật truyền thống. Phong cách Tuồng Đào Tấn là một thể thống nhất từ tư tưởng đến cấu trúc kịch bản, từ văn học Tuồng đến nghệ thuật biểu diễn, từ Âm nhạc ca hát đến vũ đạo. Phong trào hát Tuồng Đào Tấn đã cắm rễ trong đời sống tinh thần của người Bình Định và trở thành nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hồ Đắc Bích, Dương Long Căn, Lưu Hạnh, Nguyễn Hồng Tĩnh (1995), Giáo trình Đào tạo diễn viên bậc trung cấp Nghệ thuật hát Tuồng, Tài liệu nội bộ của trường Trung học VHNT Bình Định, Bình Định.
2. Vũ Ngọc Liễn (2005), Đào Tấn và Tuồng hát bội, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
- Nguyễn Phu - Nguyễn Thiều (2004), Các nhà khoa bảng Bình Định dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế.
- Nguyễn Gia Thiện, Đào Duy Kiền, Đào Phương Châm, Bùi Lợi (1996), Các làn điệu hát Tuồng khu vực miền Trung, ấn phẩm của Sở Văn hóa thông tin Bình Định, Bình Định.
5. Lê Yên (1994), Những vấn đề cơ bản trong Âm nhạc Tuồng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
____________________________
[*] Lớp Cao học k5– Chuyên ngành Lí luận và Phương pháp giảng dạy Âm nhạc.