Hoạt động nghiên cứu

Giá trị nghệ thuật của chạm khắc trên đá chùa Bút Tháp (Thuận Thành - Bắc Ninh)

05 Tháng Mười 2017

ThS. Nguyễn Thị Hồng Thư - Khoa MTCS

 

Trong tiến trình chung của nghệ thuật trang trí dân tộc, những tấm chạm khắc bằng đá chùa Bút Tháp sinh ra ở một trong những thời kỳ rực rỡ của Mỹ thuật cổ, đã trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của nghệ thuật tạo hình Việt Nam.

Đặc điểm đầu tiên của nghệ thuật trang trí Việt Nam nhận thấy được qua hệ thống trang trí bằng đá chùa Bút Tháp là hình thức bố cục theo băng dải. Những tấm trang trí được kết lại thành những “băng” dài hình chữ nhật tạo  thành một lan can đá bao quanh tòa Thượng điện, một cung tròn trang trí trên Cầu đá, rồi trên lan can chân tháp Báo Nghiêm…. Đây là một hình thức thường gặp trong nghệ thuật trang trí của dân tộc. Từ thời nguyên thủy, người Hoa Lộc đã biết tổ hợp những đồ án trang trí dựa trên những nguyên tắc băng dải của nghệ thuật trang trí đường diềm để làm đẹp cho đồ gốm. Sang đến thời kỳ Đông Sơn, ta gặp những băng tròn trang trí trên trống đồng, thạp đồng, hình thức đó như tượng trưng cho những vòng quay liên tiếp không dừng lại của vũ trụ. Thời nhà Lý cũng vậy, những hoa văn nối tiếp nhau tạo thành những dải hoa lá, sóng nước,… trên kiến trúc, điêu khắc rồi cả nghệ thuật trang trí gốm. Tiếp đến là nghệ thuật trang trí đình làng thế kỷ XVI - XVII, những cảnh sinh hoạt làng được thể hiện tiếp nối liên tục trên khung vì kèo tạo thành một bức tranh liên hoàn, đẹp mắt, làm giảm đi cái thô mộc của kiến trúc.

Song nét đặc sắc của chạm khắc trang trí đá chùa Bút Tháp là hình thức chia ô, một băng dải dài hàng chục mét được hợp thành bởi nhiều ô chữ nhật liên tiếp nhau: 26 ô trang trí ở lan can tòa Thượng điện, 6 ô trang trí trên cầu đá và 23 ô trang trí trên tháp Báo Nghiêm.  Mỗi ô là một tấm đá, ở đó thể hiện một hoặc hai hình trang trí. Điều này ta ít gặp trong nghệ thuật trang trí Việt Nam trước đó. Thông thường các băng dải là những hình nối tiếp tưởng chừng như không đứt đoạn như tính liên hoàn trong điêu khắc đình làng, cảnh nọ cảnh kia liên tiếp nhau, cạnh người đi cày là người đang nghe hát, cạnh đó lại là người đánh xe, v.v… tạo  thành một sinh hoạt xã hội làng xã của người Việt (đình Thổ Tang, Vĩnh Phú)

Một đặc điểm nữa trong bố cục của nghệ thuật trang trí Việt Nam là những tính đăng đối. Trong hơn năm mươi bức chạm khắc trang trí bằng đá chùa Bút Tháp có khoảng gần một nửa tổng số tác phẩm được bố cục bằng hình thức đăng đối. Đăng đối là một phương pháp có tính nguyên tắc trong nghệ thuật trang trí. Nhưng ở đây là người nghệ sỹ đã vận dụng nó một cách tương đối trong các bố cục mà các nhà nghiên cứu mỹ thuật thường gọi là đối xứng giả. Có nghĩa là hình thức bố cục được chia làm hai, đối xứng nhau nhưng nội dung hay cách thể hiện ở mỗi bên không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ trong bức “Rồng và hổ” trang trí lan can thượng điện. Trong tác phẩm đó một cụm mây lớn được bài trí ở giữa chia bức chạm làm hai phần và hai phần đó là hai hình thẳng bên phải là rồng bến trái là hổ. Ở đó không chỉ khác nhau về đề tài mà khác nhau cả về phong cách diễn tả, hổ được thể hiện bằng phong cách tả thực, rồng mang tính cách điệu cao. Bức chạm “Rồng và hổ” trang trí trên tháp Báo Nghiêm cũng được thể hiện với hình thức đó .

Bên cạnh đó, cũng có những tác phẩm áp dụng tính đăng đối nghiêm ngặt hơn như tác phẩm “Đôi cá vờn mặt trăng”, ở tòa Thượng điện hay bức “Phượng múa hoa mẫu đơn” trang trí trên tháp Báo Nghiêm…, ta vẫn bắt gặp tính tương đối của hình thức đăng đối trong nghệ thuật trang trí Việt Nam. Ở bức “Đôi cá vờn mặt trăng”, mặt trăng ở chính giữa, hai cá chép, hai đám mây đăng đối hai bên nhưng những con sóng lại không đăng đối một cách tuyệt đối. Bức “Phượng múa hoa mẫu đơn” cũng vậy, tưởng chừng như mọi hình ảnh chim phượng, cành lá, nụ hoa là đăng đối nghiêm ngặt nhưng lại cũng chỉ là tương đối. Trong tác phẩm, bốn nụ hoa đăng đối hai bên nhưng lại thể hiện theo những hướng không giống nhau, tư thế đậu của hai con chim phượng trên cành mẫu đơn cũng vậy, hai bên là khác nhau. Đó chính là cái hay của người nghệ sỹ dân gian Việt Nam. Họ muốn tác phẩm của mình thoát khỏi sự gò bó trong những khuân mẫu công thức có sẵn mà được phát triển theo hình thức nghệ thuật của mình. Bằng hình thức đó, đã tạo ra những bố cục sinh động, vui mắt cuốn hút người xem. Tuy vậy, trong các tác phẩm chạm đá, có những tác phẩm tính đăng đối còn nghiêm ngặt tạo ra sự khô khan nghèo nàn như đã nói ở trên, nhưng tác phẩm đó là ít gặp trong hệ thống chạm khắc đá chùa Bút Tháp.

Hình thức bố cục nhiều hơn cả ở các khung hình trang trí là những bố cục tự do. Ở những bố cục này, ngẫu hứng sáng tác của người nghệ sỹ dân gian được bay bổng hơn. Ví dụ trong bức “Đàn cò” trang trí trên lan can tòa Thượng điện thể hiện một đàn cò đang đậu trên bờ nước, mặt nước có vẻ mênh mông bởi hình thức gợi tả của những con sóng nhưng ở bên góc phải mọc lên một cây giống như cây lan, lá dài cong vút, bên góc trái mọc lên một cái cây, cành rất mập mạp là điểm đậu cho con cò đang rỉa lông rỉa cánh. Hình ảnh đó là ngẫu hứng, tác giả thêm vào cho bố cục hài hòa hơn, sống động hơn. Trong một tác phẩm như bức “Khỉ” trang trí trên tháp Báo Nghiêm cũng vậy, tác phẩm thể hiện hươu, chim, một đàn khỉ đang trảy những trái lựu chín mọng, có con đang “lặng lẽ” thưởng thức trái lựu, khung cảnh rất bình yên thì lại “xuất hiện” một cái tổ ong lớn để một con khỉ cầm que chọc. Tính ngẫu hứng tạo ra sự sáng tạo không ngừng cho những tác phẩm nghệ thuật, mà ta thấy rất rõ nét trong nghệ thuật trang trí Việt Nam nói chung và những bức chạm khác bằng đá chùa Bút Tháp nói riêng.

Nghệ thuật chạm khắc đá cũng có từ khá lâu trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Lịch sử mỹ thuật đã lưu giữ được những tác phẩm chạm đá tiêu biểu có từ thời nguyên thủy, nhưng sang thế kỷ XI nó mới thực sự phát triển. Đến thế kỷ XVI, XVII, những tác phẩm nghệ thuật bằng chất liệu đá không nhiều mà chủ yếu chất liệu tạo hình ở thời kỳ này là gỗ. Song lịch sử mỹ thuật vẫn còn ghi nhận nhiều tác phẩm chạm đá mang giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu như những bức chạm đá ở chùa Bút Tháp.

Về mặt kỹ thuật, các bức chạm khắc trang trí ở đây được thể hiện khá điêu luyện. Nó vẫn giữ được truyền thống chạm khắc của các thế kỷ trước.

Đa phần các bức chạm đều tạo được lớp lang, tầng bậc trên bề mặt. Lớp trước lớp sau tạo ra không gian trông hết sức hiện thực. Ví dụ như bức “Đôi rồng” trang trí trên tháp Báo Nghiêm ta thấy được trình độ của người nghệ sỹ dân gian đã đạt đến một kỹ thuật như thế nào. Từng lớp sóng nước, mây trời, những hình ảnh khi ẩn, khi hiện đã tạo ra một không gian hùng vỹ trong cuộc gặp gỡ của hai nhân vật huyền thoại .

Hơn thế nữa, trong bức “Rồng và hổ” trang trí trên tháp Báo Nghiêm, hình ảnh rồng cảm giác như “bay” ra khỏi tác phẩm với một dáng vẻ hết sức oai hùng. Người xem có được cảm nhận như vậy là nhờ vào kỹ thuật tạo tác rất cao mà tác giả của nó đem lại. Ở đó người thợ khác đã đưa hình ảnh của một bức phù điêu thành một hình khối chắc nịch, có thể tích, trọng lượng và dường như nó chiếm lĩnh một không gian vượt ra bên ngoài tác phẩm. Hỉnh ảnh đó dường như tách rời khỏi tấm đá. Kỹ thuật này gần giống với kỹ thuật chạm lộng trong kỹ thuật chạm gỗ, nó là đỉnh cao của kỹ thuật chạm khắc Việt Nam.

Trong tất cả các bức chạm, người nghệ sỹ dân gian chùa Bút Tháp đều chú ý đến chính phụ của tác phẩm nghệ thuật. Tất cả các “nhân vật” chính đều được chạm nổi rất cao, bối cảnh không gian xung quanh với nét chạm nổi thấp hơn. Sự thay đổi của đường nét như vậy nên những hình tượng trong chạm khắc đá ở đây trở nên sống động hơn. Ngoài ra, chúng đã có sự kết hợp cả khắc nổi lẫn khắc chìm để tạo cho hình mẫu sự hài hòa trọn vẹn. Hơn nữa, trong những bức chạm, người người nghệ sỹ dân gian chùa Bút Tháp cũng tỏ ra rất thành thạo trong việc chạm các đường cong uốn lượn nên đã tạo ra được những hình chạm sinh động, phóng khoáng. Đáng chú ý như những đường nét diễn tả hoa lá: từ những nét nhỏ, tinh tế của cánh hoa, nhị hoa cho đến những đường gờ mềm mại trên thân. Tất cả đều được thể hiện chau chuốt và công phu bên cạnh sự biểu cảm của đường nét, hình khối. Chạm khắc trang trí bằng đá chùa Bút Tháp cũng được người nghệ sỹ dân gian tìm tòi, chắt lọc. Đa phần những hình ảnh ở đây ít chú trọng tỉa tọt gọt chi tiết nhưng vẫn tạo nên sự uyển chuyển, mềm mại với những hình khối khỏe khoắn, gợi cảm.

      Như vậy, bằng phương thức tiếp cận trực tiếp của nghệ thuật điêu khắc, những bức chạm đá được xem như những báu phẩm quý trong kho tàng Mỹ thuật cổ Việt Nam và nó là những bài học trong nguyên lí tạo hình cho không ít thế hệ nghiên cứu mỹ thuật ngày hôm nay kế thừa.

      Hơn năm mươi bức chạm khắc bằng đá chùa Bút Tháp, lại một phong cách nghệ thuật độc đáo và ở đó chính là những đặc điểm tiêu biểu cho mỹ thuật cổ Việt Nam.

    Đặc điểm đầu tiên ta thấy được là hình thức kết cấu theo băng dải, một hình thức vốn có từ sớm trong nghệ thuật truyền thống, song cái đặc sắc của những bức hình trang trí ở đây là hình thức chia ô. Trên một băng dải dài hàng chục mét được chia làm nhiều ô hình chữ nhật nối tiếp nhau và mỗi tác phẩm được bố cục trong một khung hình khép kín.

       Đặc điểm thức hai của nghệ thuật chạm đá chùa Bút Tháp là tất cả các tác phẩm được bố cục bằng hai hình thức bố cục chính là bố cục đăng đối và bố cục tự do. Và dù ở bất kì sự sắp xếp nào thì nó vẫn bộc lộ sự sáng tạo, tình cảm ngẫu hứng của người nghệ sỹ dân gian.

      Phong cách nghệ thuật cũng vậy, với hai phong cách chủ đạo là cách điệu và tả thực. Trong đó, hầu hết các tác phẩm đều có sự thống nhất hài hòa giữa hai phong cách trên và tất cả đều có chung một mục đích là toát lên cái khí, cái thần cho tác phẩm.

      Đặc điểm tiếp theo là những tác phẩm ở đây mang đậm sắc thái nghệ thuật dân gian. Nhìn vào đó ta thấy sự gò bó của bất kỳ một nguyên tắc nào của người nghệ sỹ cũng không bị phụ thuộc quá nhiều vào hiện thực khách quan. Bằng những đường nét hình khối được chắt lọc mang tính biểu cảm cao cho tác phẩm chạm đá chùa Bút Tháp đã nói lên một cuộc sống đầy thiên nhiên hoa lá chim muông tràn đầy sự sống. Mỗi tác phẩm như một thông điệp cho những ước mơ, khát vọng về một cuộc sống an lành, phồn thịnh. Bằng một thế giới quan độc đáo, phong phú, những bức chạm khắc đá chùa Bút Tháp đã thể hiện sự thấm đượm một giá trị nhân văn cao cả. 

            Chạm khắc trên đá chùa Bút Tháp với những hình tượng nghệ thuật phong phú, sinh động đã thể hiện sâu sắc thế giới quan của người Việt.

Cũng giống như các nền mỹ thuật cổ khác trên thế giới, mỹ thuật cổ của Việt Nam cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của những hệ tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng. Song tôn giáo tín ngưỡng của người Việt vô cùng phức tạp, nó không rạch ròi và quy củ như những tôn giáo của những nước khác trên thế giới.

Về đại thể Việt Nam có ba tôn giáo lớn: Phật giáo, Đạo giáo và Nho Giáo (không kể đến Thiên chúa giáo là một ảnh hưởng khác) là những tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào trong nước nhưng ba tôn giáo đó lại dung hòa với tín ngưỡng bản địa tạo thành nhiều “biến thể” khó phân biệt.

       Tín ngưỡng người Việt là một tín ngưỡng đa thần, người Việt Nam thờ rất nhiều vị thần khác nhau: Thờ các thần linh trong vũ trụ, thờ Mẫu, thờ tổ tiên, thờ thành hoàng làng, thờ các anh hùng dân tộc. Tín ngưỡng này can thiệp tích cực và góp phần tạo nên những điểm cốt yếu của ứng xử con người trong cộng đồng và tạo nên các phong tục tập quán. Với người Việt, vai trò của các giáo thuyết của các giáo đoàn, tăng lữ, giáo chủ không rành mạch, khắt khe hay khép kín. Tất cả những điều này không quan trọng bằng các đức tín và các tục lệ trong cộng đồng. Cũng do con người và phương cách tác động đặc biệt này của tôn giáo, tín ngưỡng nên ảnh hưởng của chúng đến văn hóa, nghệ thuật và lối sống cũng khác các nơi khác.

     Trong đời sống tín ngưỡng phức tạp như vậy nên các tôn giáo khác du nhập vào Việt Nam đều bị ảnh hưởng bởi các tín ngưỡng bản địa đó và bị bản địa hóa. Đạo giáo là một tôn giáo lớn ở Trung Quốc, người sáng lập là Lão Tử. Đạo giáo vào Việt Nam từ đầu công nguyên. Đạo giáo lấy thanh tịnh tự nhiên làm tôn chỉ, lấy tự nhiên ứng với tự nhiên. Đạo là một nguyên lí huyền diệu, vô hình vô sắc sinh ra âm dương, triết học của nó căn bản là vô vi, kêu gọi sự hội nhập của con người với tự nhiên. Song, Đạo giáo vào Việt Nam lại khác xa với những triết lí cao sâu của Lão Tử. Có khi nó là tư tưởng thư thái an nhàn, tiêu dao phóng khoáng, có khi nó là phép thuật âm dương, phù thủy, luyện thuốc trường sinh, những chuyện thần tiên v.v…

     Nho giáo cũng là một tôn giáo lớn của Trung Quốc, người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử. Nho giáo là một học thuyết thiên về khoa học xã hội và phép trị nước. Lý luận của Nho giáo là âm dương - ngũ hành, nó là một hệ tư tưởng bàn về tổ chức nhà nước, thiết lập những mối quan hệ xã hội: Quan hệ vua - tôi, huynh - đệ, chồng - vợ…, dựa trên những kỉ cương phép tắc của tam cương, ngũ thường… Nho giáo cũng vào Việt Nam từ đầu công nguyên. Song người Việt không nặng về những học thuật, vậy nên Nho giáo cũng chỉ là những quy định cách thức ứng xử của con người trong cộng đồng.

    Phật giáo là một tôn giáo lớn của Ấn Độ, vào Việt Nam cũng từ rất sớm (khoảng đầu công nguyên). Phật giáo đi tìm nguồn gốc nỗi khổ đau của con người và tìm cách giúp họ thoát khỏi bể khổ: Tránh tham - sân - si, tránh luân hồi và vươn tới khát vọng cao nhất là về cõi niết bàn.

        Phật giáo là một tôn giáo phổ quát nhất và ảnh hưởng sâu sắc nhất tới người Việt bởi tính bao dung, từ bi bác ái, nó hòa hợp với tinh thần và văn hóa của người Việt. Song Phật giáo cũng như các tôn giáo khác vào Việt Nam đều bị bản địa hóa. Ngôi chùa của người Việt không chỉ thờ Phật mà còn thờ Trời (Ngọc Hoàng), thờ Mẫu, thờ Thánh (theo kiểu “Tiền Phật hậu Thánh” hoặc “Tiền Thánh hậu Phật”).

           Các tôn giáo đó ngoài việc bị tác động bởi tín ngưỡng bản địa của người Việt thì nó cũng tác động phần nào đến tín ngưỡng bản địa. Và bản thân các tôn giáo đó khi du nhập vào Việt Nam cũng lại tác động đến nhau tạo thành một sắc thái rất đặc biệt của tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam. Hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” Nho - Phật - Lão, cùng với các tín ngưỡng dân gian tạo thành tâm thức của người Việt và tác động sâu sắc đến văn hóa nghệ thuật. Đó cũng chính là hệ tư tưởng của mỹ thuật cổ Việt Nam mà những bức chạm khắc bằng đá chùa Bút Tháp là một trong những biểu hiện sâu sắc nhất.

               Như đã nói, hơn năm mươi bức chạm đá ở đây góp phần xua đi cái không gian u tịnh nơi cửa Phật. Thế giới bên trong những bức chạm là thế giới của Phật - Pháp - Tăng, là thế giới của cõi niết bàn, thế giới của sự trầm tư tịnh lự với những dáng ngồi kiết già, tĩnh tại nghiêm trang, tịnh tâm hướng nội với những khuôn mặt thanh tịnh, siêu thoát. Còn thế giới của những bức chạm như ta đã biết nó là một thế giới hoa lá chim muông tràn đầy sức sống.

        Trước hết, những bức chạm ở đây là những tác phẩm trang trí của một công trình kiến trúc Phật giáo mà ở đó dường như người ta muốn khẳng định sự sống, sự chuyển động, vòng luân hồi của tạo hóa qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nó chính là chu kì của thời gian cũng như chu kì sự sinh trưởng của đời người. Và trong thế giới tự nhiên, cỏ cây, hoa, lá, muông thú vui vầy phải chăng như có thông điệp nhắc nhở con người ta giác ngộ trước sự quyến rũ nơi trần thế để hướng mình về cõi niết bàn, về nơi cửa Phật tránh vòng luân hồi tham - ái - sân - si.

        Như ta biết, chủ nhân của ngôi chùa này là tầng lớp quý tộc lúc bấy giờ, chính vì vậy họ đã mang vào trong đó một cái nhìn của tầng lớp trí thức đương thời. Vì vậy những bức chạm khắc đó được bao chùm bởi một tinh thần chủ đạo của thế giới quan Nho giáo. Những biểu tượng của tứ linh, tứ quý như những tiêu chí cho những quy chuẩn về sự cao sang quyền quý.

        Tuy nhiên, những hình thức biểu hện những biểu tượng giàu tinh thần Nho Giáo đó đã được dân gian hóa. Con rồng, con phượng không chỉ là sức mạnh quyền uy nữa mà nó biểu trưng cho những khát vọng khác,“long ẩn”, rồng và mây, “long quy hải”, rồng về biển như ta đã cắt nghĩa nó là những khát vọng cho nhân duyên, cho sức mạnh của sự sống đang chuyển động không ngừng. Những tứ linh, tứ quý đó đều được bình dị hóa. Hình ảnh con lân, dấu hiệu của bậc thánh nhân xuất hiện ngang hàng với con trâu của người nông dân đang thư thái trong một cảnh an bình, có lẽ tất cả đối với người dân Việt đều là khát vọng về cuộc sống thanh bình ấm no.

          Ở đó, ta thấy mỗi bức chạm là một câu chuyện với chủ đề riêng nhưng nhìn bao quát ta có thể thấy được sự nhất quán của nó. Xuyên thấm những hình ảnh sống động đó là một nhân sinh quan khỏe mạnh, một niềm lạc quan yêu đời. Tất cả những lời chúc tụng, những ước mơ về một cuộc sống sung túc đủ đầy. Mặc dù là nghệ thuật của tầng lớp quý tộc nhưng các bức chạm đều gần gũi với những người dân lao động bởi tính hiện thực và giá trị nhân văn của nó.

           Do ảnh hưởng giữa các tôn giáo, tín ngưỡng với nhau mà Phật giáo Việt Nam mang một tinh thần khác. Ở đó (cửa Phật) là nơi gửi gắm niềm tin của con người chứ không phải là giáo đường thuyết giáo cho những học thuyết sao siêu. Tất cả những quan niệm đó trở thành nền tảng tinh thần và tạo thành điểm sáng tác cho những bức chạm khắc trên đá chùa Bút Tháp.