Phùng Thị Huyền [*]
Trên đất nước Việt Nam hình chữ S có rất nhiều danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử và đặc biệt là các lễ hội độc đáo mang bản sắc riêng của mỗi vùng miền. Phú Thọ cũng được biết đến là một trong những địa phương của cả nước có rất nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của vùng đất tổ. Trong đó tiêu biểu là Lễ hội Cướp Kén được diễn ra ngày mồng 4 tháng Giêng tại sân đền Quốc Tế, xã Dị Nậu huyện Tam Nông.
Lịch sử đền Quốc Tế
Đền Quốc Tế là một công trình lịch sử - văn hóa tín ngưỡng lớn và lâu đời nhất ở xã Dị Nậu. Đền thờ 2 vị danh tướng thời kỳ Hùng Vương đó là Cao Sơn - Quý Minh. Ngôi đền tọa trên đỉnh gò Trạm Lĩnh, hướng chính tây.Theo Phả lục còn lưu trữ được ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì: “…Khi dẫn quân đến trang Dị Nậu, châu Tam Nông, gặp một khu địa thế ở Trạm Lĩnh thấy núi ở đây trùng điệp, sông chảy quanh co, núi không cao mà cát đá mịn màng, sông có tình mà bến bãi tiện nghi. Thực đáng là một thắng cảnh! Hôm ấy Sơn Thánh và ba ông (Cao Sơn, Quý Minh, Hiếu Lang) sai binh sĩ cùng nhân dân lập một đồn lớn tại đây, quan sát được 4 phía Đông - Tây - Nam - Bắc. Lại dựng thêm 4 chiếc lầu (sau này 4 lầu đó được dựng thành 4 ngôi điện: Điện Đông, điện Tây, điện Nam, điện Bắc để thờ tự các Ngài). Khi ấy phụ lão và nhân dân Dị Nậu ai nấy đều kinh ngạc, bèn sửa lễ xin làm thần tử, được ba ông đồng ý. Ba ông lấy người trong các họ Tạ, Nguyễn, Đinh, Đặng, Lê, Trần ra thi tuyển để chọn người tài, được hơn 200 người, chia làm 4 đội, bảo vệ 4 lầu, thường xuyên tuần phòng, ứng chiến với quân địch ở phía sau…”. Truyền thuyết kể rằng: Trước ngày xuất quân đi đánh giặc bỗng xuất hiện hai âm thần: Một người đi tới xưng là Bản cảnh Thành hoàng Sơn Động, còn người kia bước từ trong giếng Nến ra xưng là con của Lạc Long Quân. Cả hai Ngài một lòng âm phù để giúp Sơn Thánh dẹp giặc. Khi Sơn Thánh cùng ba ông dẫn quân đến châu Đại Man để đánh giặc lại gặp được ngài Bạch Thạch dẫn quân đến, xin kết giao tình bằng hữu để cùng đánh giặc. Đánh tan quân giặc, đất nước thái bình, các ông lại trở về trang Dị Nậu, phụ lão và nhân dân vui mừng khôn xiết, làm lễ bái tạ, ai cũng cảm phục công đức của các ông. Nhân dân xin lấy đồn sở của các ông hiện có làm nơi thờ tự về sau, được các ông đồng ý. Sau đó các ông Cao Sơn, Quý Minh, Hiếu Lang, Bạch Thạch lần lượt hóa Thánh tại phủ đường trên đỉnh gò Trạm Lĩnh. Dân làng làm biểu tâu lên triều. Vua sai đình thần trở về trang Dị Nậu tu tạo miếu điện, ban sắc phong cho các vị là “Thượng đẳng phúc thần”. Khi đóng quân ở trang Dị Nậu, ngoài việc huấn luyện quân sĩ, các Ngài còn thường xuyên dạy dân cày cấy, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi, làm thủy lợi và bày ra trò chơi “Cướp kén” để trang Dị Nậu nhanh chóng trở thành “làng lớn” chống chọi với thiên tai, địch họa. Nhiều năm về sau, do có linh ứng hiện nên được các bậc đế vương ở các triều gia phong mỹ tự. Đến đời Lê Thái Tổ gia phong mỹ tự là “Tế thế hộ quốc cương nghị anh linh”. Ban sắc cho trang Dị Nậu tu sửa miếu điện làm nơi thờ phụng các Ngài. Tính ra, qua các triều đại đã tấn phong 41 đạo sắc phong cho các đức thánh thần được thờ cúng ở đền Quốc Tế và các miếu điện ở trang Dị Nậu. Các sắc phong đó hiện còn nguyên vẹn và được gìn giữ cẩn thận tại đền Quốc Tế. Như vậy, Dị Nậu là một địa vực chiến lược quan trọng nên các Lạc tướng, Lạc hầu thời Hùng Vương đã lựa chọn cái thế đắc địa ở đây để xây dựng dinh lũy, khai điền, dựng nước. Đền Quốc Tế đã tồn tại hơn hai thiên niên kỷ nên đã được sửa chữa nhiều lần, không chỉ là chốn tôn nghiêm để thờ phụng, tri ân đến các bậc Thánh nhân đã có công với nước, nhằm hướng mọi người tới những điều từ bi, bác ái, trồng phúc cho hậu nhân, mà còn là nơi đã diễn ra những cuộc họp bí mật của cán bộ xã, nơi chỉnh cán luyện quân của du kích, bộ đội của ta trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1992, đền Quốc Tế được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa. Ngoài những ngày sóc, vọng, hàng năm vào ngày mồng 4 Tết, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội rước thần từ đền Quốc Tế rất long trọng”. Về Dị Nậu là về với một quần thể di tích cổ, với đền Quốc Tế, chùa Đàm Nhan, đền Nam, điện Bắc, ngoài ra còn có 7 cây đại đã thọ hơn 700 năm; cây thị đã hơn ngàn năm tuổi, đầm sen cùng những món cá đặc sản ở đây nổi tiếng là béo và thơm ngon...
Lịch sử lễ hội Cướp Kén
Tài liệu Hán Nôm của xã Dị Nậu chép rằng: sau khi thắng trận, dẹp xong giặc nổi loạn, đức Thánh Tản Viên cùng các Đại Vương lại trở về thăm trang Dị Nậu, nhân dân đến chúc mừng và xin Ngài bày phép cho dân làng cách “truyền giống” để sinh con, đẻ cái đông đúc. Tản Viên sai Oai Vương bày trò “Rước sinh thực khí” (Cướp Kén) cho dân làng thỏa ước mong. Từ đó, mỗi khi đến ngày tiệc tế Thánh Tản Viên và Đại vương Uy Minh là nhân dân làng Dị Nậu diễn lễ chọc tiết lợn đen tuyền để tế Thánh Thần và tổ chức trò chơi Cướp Kén. Về sau, dân làng Dị Nậu đã lập miếu thờ, tôn Uy Minh là thần Oai Vương. Bởi vậy, có thể khẳng định trò chơi Cướp Kén đã được khởi nguồn từ làng Dị Nậu xưa.
Xuất phát từ tình hình thực tế là ngày xưa dân số trong làng quá ít, đất rộng, người thưa, núi rừng rậm rạp có nhiều thú dữ, thiên tai, địch họa luôn đe dọa đến cuộc sống của người dân nên thông qua trò chơi Cướp Kén là thể hiện niềm mơ ước chính đáng của mọi người để được sinh con, đẻ cái, nối dõi tông đường, tạo nên dân đông, làng lớn để có đủ khả năng chống chọi với mọi sự hiểm nguy luôn rình rập từ bên ngoài, để cho dân làng mãi mãi phát triển. Thoạt nhìn vào, tưởng trò chơi Cướp Kén là thô tục, thiếu văn hóa, không thanh cao vì nõ - nường là những thứ kín đáo nhất của con người sao lại đem phô ra giữa thiên hạ! Nhưng chính những thứ kín đáo ấy lại là sự hoàn hảo nhất của tạo hóa ban tặng cho loài người và vạn vật nhằm duy trì, phát triển nòi giống để tồn tại mãi mãi. Tạo hóa sinh ra âm, dương giao hòa, cùng kết hợp để loài người không ngừng sinh tồn và phát triển trong thế giới hữu hình. Bởi vậy, trò chơi Cướp Kén mang tính phồn thực và đã tự khẳng định nhân sinh quan về những khát vọng muôn thuở, đáng yêu của mọi kiếp người! Trò chơi Cướp kén là một trò chơi dân gian đặc sắc, một nét đẹp của văn hóa làng đã gắn bó với cộng đồng dân cư qua bao đời nay. Trò chơi đã thể hiện trí tưởng tượng, cách ứng xử sáng tạo của ông cha ta từ xa xưa giữa những quan niệm “thiêng” và “tục”, “đạo” và “đời” trong cuộc sống đời thường. Ngẫm ra mới thấy sự hồn nhiên và thâm thúy của các cụ ta ngày xưa, không những chu đáo trong mọi công việc của nhà nông mà còn toát lên tinh thần hướng thiện thể hiện rõ trong nội dung các trò chơi dân gian của làng xã.
Lễ hội Cướp Kén
Xưa kia, cứ vào sáng sớm mồng 4 Tết, tại sân đình Chua, dân làng lại tổ chức lễ hội Cướp Kén. Tục này của Dị Nậu đã được ghi vào trong cuốn Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam do Hữu Ngọc chủ biên năm 1995. Ngoài ra nhóm Văn Tân - Văn Đạm cũng nói rõ: “Dị Nậu là nơi khởi nguồn của trò chơi Cướp Kén”. Lễ hội Cướp Kén được diễn ra tại sân đền Quốc Tế, nơi có không gian rộng rãi thoáng mát. Xưa kia, lễ hội được tổ chức tại đền Chua nhưng vào năm 1945 đình Chua đã bị giặc đốt cháy nên lễ hội được tổ chức tại đền Quốc Tế từ đó cho đến nay.
Đồ vật gồm ba mươi cái “nõ - nường” (dương vật gọi là “nõ” và âm vật gọi là “nường”, các nõ - nường đó gọi là Kén). Các kén được xếp vào trong chiếc hộp, đặt lên hương án để lễ, xin âm keo. Các bộ Kén này được coi là vật thiêng, biểu tượng của thần nông trong nền văn minh lúa nước. Nõ được đẽo tròn, dài chừng 15cm bằng gỗ xoan khô cho nhẹ và nường được cắt từ những mo cau khô to bằng bàn tay, khoét thủng một lỗ ở giữa. Bên cạnh đó cần chuẩn bị nước ngũ vị và cành lộc để vẩy nước thiêng cho cây kén. Sau khi yết cáo Thánh Thần, xin âm keo, Kén được treo lên cây nêu cao bằng những sợi dây mảnh. Cây nêu được dựng trước sân đình, xung quanh có lọng che và cờ xí phấp phới bay. Khi mọi thủ tục chuẩn bị đã xong, cụ chủ tế thắp tuần hương cầu khấn rồi trịnh trọng đọc bài khánh chúc, cầu chúc cho“sỹ, nông, công, thương, trưởng ấu đăng thọ vực xuân đài đều Đầu Đầu tiên ông chủ tế đọc bài chúc gọi là giáo kén:
Trình các quan viên lẳng lặng mà nghe
Tôi xin giáo kén đệ niên thường lệ mồng 4 tháng Giêng.
Đức đại vương giá ngự đình tiền, thính văn ca vũ
Sĩ công nông thương, trưởng ấu đăng thọ vực xuân đài, đều phú quý khang ninh.
Nam nữ chúc Cao Bành cảnh tượng.
Sĩ dân ta tài năng độ lượng, nhất cử khôi khoa
Nông năm nay lúa thóc đề đa, gia cấp nhân túc
Công dân ta cầm cân thủ mực hưởng lộc thiên niên
Thương dân ta mua trăm bán vạn
Ấy là kế tứ dân hành lạc.
Kén năm nay thanh tân đài các
Rước kén vào bái bẩm thánh vương
Giáng phúc cho già trẻ bình yên
Trai gái được cam lòng hả dạ.
Lão tôi nay con nhà thần hạ
Vâng lệnh vua cầm kén giao lên.
Thượng hạ đôi bên, ai ai cũng một lòng ao ước
Lục thao tam lược, kén khoe tài chẳng kém thua ai.
Kén chày kình đối với kén mo đài, kể cực phẩm nhân gian khoái tạo.
Ai mà cướp được con kén chày kình, ấy thực nam sinh công hầu bá tước.
Ai cướp được con kén mo đài, ấy thực nữ tài cung phi hoàng hậu.
Con con cháu cháu thịnh tử đa tôn, ấy thực dân ta thịnh nhân thịnh vật.
Chúc tuổi vua muôn năm trường thọ.
Vậy có thơ rằng:
Mồng Bốn năm nay kể vui thay
Kén đâu hơn được kén ta đây
Già trẻ ai ai đều vui dạ
Gái trai ong óng rắp ra tay.
Cướp lấy đem về mà gìn giữ
Cầm kén tung ra thoả chí thay
Đức vua phù hộ cho dân thịnh
Cháu con hào kiệt hưởng lộc dày.
Cuối cùng ông chủ tế dõng dạc hô to: “Chiềng làng chiềng chạ; thượng hạ tây đông; trai gái trẻ già, cùng về cướp kén”.
Sau khi đọc bài giáo kén, ông chủ tế tiến hành hóa bài giáo kén, tiếp đó chủ tế dùng nước ngũ vị để tẩy uế kén. Ngay sau đó hai quan viên to cao, khỏe mạnh, vận áo thụng xanh thắt bao lưng đỏ, đầu chít khăn đỏ, rồi mỗi người dùng hai tay nắm chắc một cây Nêu, dâng cao lên, quay về tứ phía; vừa quay vừa rung thật mạnh cho kén đứt khỏi dây buộc, rơi xuống để mọi người ùa vào cướp kén; thậm chí có người cao hứng còn nhảy cao lên để cướp kén ngay trên cây nêu khi chúng chưa kịp rơi xuống. Trong khi cướp kén, người ta khua chiêng, gõ trống xen lẫn tiếng reo hò của mọi người liên hồi không ngớt. Ai may mắn cướp được kén (dù nõ hay nường) thì cần làm lễ tạ thần linh để đem phúc về cho gia đình mình. Ngoài việc cướp được kén để mong sinh con đẻ cái, người ta còn dùng kén để cầu mong cho cây thêm sai quả, gia súc đẻ thêm nhiều. Sau khi đã cướp được kén, người dân đã đến đền dâng lễ tạ cầu may.
So với trước đây, lễ hội Cướp Kén hiện nay có một vài thay đổi: Nếu như không gian diễn ra lễ hội xưa chỉ có tổng dị (6 làng xung quanh) đến cướp kén thì ngày nay không gian vui chơi mở rộng rất nhiều. Cư dân nhiều huyện, tỉnh khác cùng đến tham gia lễ hội, vì vậy không gian lễ hội trở nên đông đúc và náo nhiệt hơn.
Như vậy có thể nói, lễ hội Cướp Kén ngày nay vẫn giữ được nội dung, bản chất cũng như giá trị vốn có trước kia. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể, là tài sản tinh thần vô giá đã đi sâu vào đời sống tâm linh, gắn liền với cuộc sống của người dân nơi đây từ ngàn đời nay nên chúng ta cần bảo tồn, tôn vinh và phát huy để những mĩ tục ấy ngày thêm lan tỏa.
Tài liệu tham khảo
1. Hữu Ngọc (Chủ biên) (1995), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Thế giới.
2. Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông, Chi hội Văn nghệ dân gian (2013), Di sản
văn hóa huyện Tam Nông tập 1.
3. Văn Tân , Văn Đạm (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.
________________________
[*] Lớp Cao học k3 - Chuyên ngành Quản lý Văn hóa