Hoàng Minh Cương [*]
Trang trí là làm đẹp hơn cái vốn có, trang trí giúp cuộc sống của con người trở nên tươi đẹp hơn, nghệ thuật hơn, chính vì vậy việc dạy học phân môn Vẽ trang trí (VTT) trong các trường phổ thông cần được coi trọng. Trường THCS Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội đã có sự quan tâm đến công tác dạy học phân môn Vẽ trang trí sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.
Trang trí bắt nguồn từ thực tế đời sống xã hội. Trang trí là làm đẹp hơn cái vốn có ban đầu. Học phân mônVTT, ta sẽ biết làm đẹp cuộc sống xung quanh, làm đẹp cho gia đình và làm đẹp cho chính mình. Tiếp xúc hàng ngày với nghệ thuật trang trí, nếu biết kết hợp, áp dụng những kiến thức học tập được, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy nhiều bài học bổ ích góp phần làm cho đời sống thêm sinh động và đẹp tươi hơn.
Chính từ việc nhận ra được ý nghĩa và tầm quan trọng của Trang trí cho đời sống như thế nào, trường Trung học cơ sở Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội luôn muốn học tập, nghiên cứu và áp dụng nhiều phương pháp đổi mới trong quá trình dạy học phân môn VTT, nhằm mang lại hiệu quả cao hơn cho chất lượng của phân môn VTT.
1. Mục tiêu và phát triển một số kĩ năng cần thiết qua phân môn VTT, trường THCS Thanh Liệt
Điều đầu tiên là cần đặt ra các mục tiêu cho Phân môn VTT ở trường THCS Thanh Liệt, đó chính là tạo hứng thú học tập môn VTT cho học sinh (HS) và phát triển ở HS một số kĩ năng qua quá trình dạy học phân môn VTT.
Muốn HS học tốt, người thầy cần có những phương pháp dạy học thích hợp, kích thích hưng phấn của HS. Khi tạo được hứng thú cho các em trong học tập phân môn VTT thì các em sẽ say mê học và ứng dụng được những lý thuyết thu nhận được để ứng dụng vào thực hành để trang trí một số vận dụng của bản thân cũng như gia đình.
Hay như việc hình thành cho HS một số kĩ năng như: Kĩ năng quan sát và ghi nhớ, kĩ năng sắp xếp hình ảnh, họa tiết trang trí phù hợp với vật dụng cần trang trí, kĩ năng làm việc nhóm và kĩ năng thuyết trình.
Với mục tiêu giáo dục cho học sinh cái hay, cái đẹp trong cuộc sống thông qua nội dung vẽ và có thể ứng dụng vào trong cuộc sống, giúp học sinh cảm nhận được sự quan trọng của Mỹ thuật nói chung và VTT nói riêng đối với đời sống.
2. Một số yếu tố cần điều chỉnh làm tiền đề cho việc nâng cao chất lượng phân môn VTT trong trường THCS Thanh Liệt
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên (GV): đây là một nội dung quan trọng mà bất kì GV môn nào cũng cần thực hiện bằng cách tự tìm hiểu các kiến thức, các bài giảng trên mạng, thành lập các nhóm của giáo viên Mĩ thuật trong huyện để có thể dễ dàng trao đổi về chuyên môn, kĩ năng sư phạm cũng như xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình công tác. Hoặc tham gia vào việc đào tạo trình độ một cách cơ bản như trình độ đại học, cao học…
Bổ sung và nâng cao yếu tố cơ sở vật chất, các phương tiện dạy học: nếu chưa có phòng học chức năng riêng cho các môn năng khiếu, do đó việc cần bổ sung phòng học chức năng là một điều cần thiết, tuy nhiên nếu không đáp ứng được GV có thể tự tạo cho HS một góc học tập với không gian nghệ thuật ngay tại chính phòng học của các em HS.
Giáo viên sử dụng công nghệ thông tin để xây dựng giáo án điện tử, tạo sức hút lớn đối với HS, và hiệu quả giảng dạy cao nhờ việc có các hình ảnh sống động, có âm thanh, các hiệu ứng gây nên hiệu quả thị giác… Hay việc sử dụng cụ trực quan cần đa dạng và phong phú hơn.
Thay đổi chất liệu ở một số bài cũng là cách để học sinh tăng thêm sự hứng thú trong khi học, tăng thêm tính tư duy, tính sáng tạo và tìm tòi cái mới cho bản thân, giúp các em vận dụng một cách linh hoạt và triệt để các đồ dùng, dụng cụ học tập.
3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn VTT ở trường THCS Thanh Liệt
3.1. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong các phần lí thuyết
Nghiên cứu kĩ nội dung sẽ tham gia giảng dạy: trước mỗi buổi dạy một bài trang trí bất kì, GV phải nghiên cứu tài liệu thêm ở ngoài về bài trang trí đó, chứ không chỉ gói gọn theo sách giáo khoa, khiến cho việc dạy và học bị thụ động thiếu tính linh hoạt.
Sưu tầm tranh ảnh phù hợp theo nội dung bài giảng để tăng phần hấp dẫn… Giáo viên sưu tầm tranh ảnh, ngoài các bài mẫu có tính trực tiếp, thì GV nên chọn các họa tiết, hình trang trí có tính gián tiếp để học sinh sáng tạo dựa trên cái đó, hoặc để cho HS tìm kiếm học tiết, sau đó để HS tự đưa vào bài.
Cho học sinh áp dụng phương pháp phát hiện và tự giải quyết vấn đề.
Học sinh chủ động nắm bắt kiến thức, GV củng cố sẽ giúp cho các em phát huy được tính tích cực của mình cũng phư làm quen được với một số kĩ năng như làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng tự tư duy. Đổi mới ở đây là với cách làm như vậy, giáo viên không phải đọc mẫu cho học sinh viết mà thay vào đó, thì học sinh sẽ chủ động hơn đối với môn học của mình.
3.2. Thay đổi thời lượng cho phần vẽ thực hành
Vẽ thực hành là một phần không thể thiếu đối với môn Mỹ thuật, bởi phải được thực hành nhiều thì mới có thể nâng cao được chất lượng bài vẽ được, tuy nhiên thời . Vì vậy, tác giả có những đề xuất sau:
Sử dụng phương pháp dạy học tích cực như trên đã đề cập để nhằm giảm bớt thời gian học lý thuyết xuống (Từ 15 đến 20 phút cho việc quan sát, tìm hiểu đến hướng dẫn thực hành có thể giám xuống còn 5-10 phút).
Một cách có thể áp dụng thực hiện nữa để nâng thời gian thực hành lên đó chính là GV bao quát các bài có sự giống nhau trong nội dung dạy lý thuyết lại, tiến hành dạy học trong một thời gian nhất định chung cho tất cả các bài. Sau đó HS chỉ cần tự ôn lại kiến thức trước mỗi giờ học, khi đến tiết thì dành hoàn toàn thời gian cho phần thực hành. Như vậy thời gian thực hành của HS cho các bài học được nâng lên đáng kể, các em có điều kiện để hoàn thành bài học của mình một cách hoàn thiện nhất.
3.3. Nâng cao chất lượng một số phương pháp dạy học VTT được sử dụng tại trường THCS Thanh Liệt
Phương pháp vấn đáp
GV sử dụng hệ thống câu hỏi để thực hiện trao đổi, gợi mở cho HS về nội dung nhằm khai thác một nội dung, một vấn đề nào đó của bài học. Hệ thống câu hỏi cần: Rõ ràng mạch lạc, dễ hiểu, bám sát nội dung bài học, phù hợp với nhiều đối tượng HS; Thay đổi hình thức câu hỏi (nêu trực tiếp, gián tiếp hoặc bằng hình thức đố vui…) để tạo sự hấp dẫn cho HS; Câu hỏi gợi mở mang tính động viên khích lệ HS,tuyệt đối không mang tính phủ định hay áp đặt.
Khi giảng bài nếu GV có thể cho các em quan sát các hình ảnh thông qua giáo cụ trực quan, từ những gì các em quan sát được GV giúp các em chắt lọc, tích lũy lượng kiến thức một cách chủ động nhất. Vì vậy phương pháp trực quan kết hợp với phương pháp phân tích là một giải pháp phù hợp trong việc dạy học phân môn VTT.
Phương pháp gợi mở
Có hiệu quả cao khi sử dụng trong dạy học phân môn VTT. Giáo viên dùng lời nhận xét, câu hỏi gợi mở để HS quan sát, nhận xét, suy nghĩ, so sánh đối chiếu và tự điều chỉnh, sửa chữa bài vẽ của mình. Phương pháp này rất phù hợp với việc hướng dẫn học sinh làm bài tập, vì nó phát huy được khả năng độc lập suy nghĩ, tìm tòi, tính tích cực học tập của mọi học sinh. Sử dụng phương pháp gợi mở GV tạo điều kiện cho học sinh tự suy nghĩ, tự tìm hiểu để tìm đến kiến thức bài học.
Phương pháp trò chơi
Phương pháp trò chơi là một trong những phương pháp dạy học mang lại hiệu quả cao nhờ việc gây được hứng thú, sự nhiệt tình tham gia của HS, sự tích cực thi đua giữa những người chơi, nhóm chơi cộng với sự cổ vũ của các bạn. Chúng tạo cho các em một giờ học thực sự thoải mái. Tuy nhiên chúng cũng có nhược điểm khi người GV không lựa chọn được trò chơi phù hợp, không tiết chế được HS thì sẽ dễ dẫn đến giờ học không đi được đúng hướng GV muốn, dễ dây ồn ào, ảnh hưởng đến các lớp học khác.
Phương pháp làm việc theo nhóm
Phương pháp này phát huy được tính tích cực, chủ động, mọi HS đều được tham gia học tập. Xây dựng cho HS tinh thần tập thể, sự hợp lực, ý thức cộng đồng với công việc chung, đồng thời hình thành ở HS phương pháp làm việc khoa học, tự lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch.
Tùy theo yêu cầu của các loại bài, từng bài cụ thể và từng thời điểm nhất định mà GV vận dụng phương pháp làm việc theo nhóm sao cho phù hợp, có hiệu quả nhất.
Đánh giá kết quả bài học.
Việc đánh giá kết quả bài học cần được tính ngay từ khi xác định mục tiêu và thiết kế bài học nhằm giúp HS và GV kịp thời nắm được thông tin liên hệ ngược chiều để điều chỉnh hoạt động dạy và học. Có thể đánh giá kết quả như:
+ Cho học sinh lập nhóm tìm hiểu về một phương diện của VTT, sau đó thuyết trình.
+ Đánh giá bài học của các em bao gồm cả một quá trình chuẩn bị các phần phụ như tư liệu do các em kí họa được, các hình cách điệu,... đây có thể coi như phần điểm thưởng.
+ Cho các bạn HS tổ chức cuộc triển lãm với quy mô cấp lớp, cấp khối để các bạn có thể đưa ra phiếu đánh giá, tích điểm theo từng sản phẩm của các bạn.
3.4. Sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học
Các hình thức tổ chức dạy học phân môn VTT bao gồm có:
Dạy học ngoài lớp: Như đi thăm bảo tàng, đi vẽ ngoài trời hoặc đến những nơi có liên quan nhiều đến VTT.
Dạy học kết hợp ứng dụng vào cuộc sống: GV hướng cho HS ứng dụng những họa tiết, cách trang trí lên những sản phẩm sáng tạo ứng dụng vào cuộc sống: trang trí bình gốm, đĩa, trang trí hoa văn trên vải, trang trí tường của nhà trường, lớp học hoặc tại nhà HS…
Qua thực tế những bài vẽ của HS trong trường THCS Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, ta sẽ biết được các em nhận thức về phân môn VTT đến đâu, có thực sự yêu thích phân môn này hay không. Từ đó có những điều chỉnh về phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả cao hơn. Những thay đổi ấy đã được kiểm chứng qua quá trình thực nghiệm của phân môn VTT trong năm học 2016 - 2017 với kết quả các bài học đều có sự tiến bộ về mặt điểm số và HS có tiến bộ về mặt nhận thức, hình thành được một số kỹ năng cần thiết như làm việc nhóm, thuyết trình.
Điều đạt được thành công lớn đó là dần thay đổi nhận thức của HS, cha mẹ HS về vai trò của phân môn VTT trong cuộc sống. Họ thấy được lợi ích của việc có kiến thức về trang trí, từ đó biết làm đẹp hơn cho cuộc sống, giúp hình thành tính thẩm mỹ trong mỗi con người.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát triển tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Trần Bá Hoành(2006), Đổimới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3.Trần Quốc Toản (1999), Mỹ thuật và phương pháp dạy học mỹ thuật ở trung học cơ sở, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Thu Tuấn (2011), Tính sáng tạo trong tạo hình của lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở, Tạp chíVăn hóa nghệ thuật, số 326, Hà Nội.
5. Nguyễn Thu Tuấn (2011), Giáo trình Phương pháp dạy học Mỹ thuật - tập 2, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
________________________
[*] Lớp Cao học k1 - Chuyên ngành Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn Mỹ thuậtnghệ trình nghghệ thuật