Sự kiện

Đạo đức và năng lực của người thầy giáo trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay*

23 Tháng Chín 2019
Tô Bá Trượng- Viện Nghiên cứu Hợp tác Phát triển giáo dục 
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng nền đạo đức mới, trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy. 
                                                                                                           
1. Đặt vấn đề
 
 Như chúng ta đã biết, người thầy giáo luôn phải là một chuẩn mực đạo đức để xã hội noi theo, là “kiến trúc sư trí tuệ” tạo ra thế hệ tương lai cho đất nước. Cũng đã có nhều cách ví von như “Một người công nhân tồi có thể làm hỏng một vài sản phẩm, một người kỹ sư tồi có thể làm hỏng một vài công trình nhưng một nhà giáo tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ!”. Điều đó quả không sai, người Thày tồi sẽ đem lại hậu quả khôn lường mà cả xã hội phải gánh chịu cho đến tận mai sau. Sinh thời, Bác Hồ đã nhận định: “Có thầy giỏi thì rồi sẽ có phương pháp hay, do đó, sẽ có trò giỏi, còn thầy đã kém thì khó lấy gì bù đắp nổi”. Chính vì vậy, trong thời gian qua, những tiêu cực liên quan đến chất lượng giáo dục và đặc biệt là đạo đức người Thày giáo đang đặt ra những vấn đề cần đặc biệt quan tâm.
 
 Nhìn lại nền giáo dục nước nhà, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định: “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Vì thế, trong những năm qua, chúng ta đã chú trọng việc “bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ Thày giáo ở tất cả các cấp học, bậc học”.  Bên cạnh những người thầy ngày đêm âm thầm cống hiến cho sự nghiệp trồng người của dân tộc, hun đúc nên sự vẻ vang của nền giáo dục nước nhà nói chung và đạo đức giáo dục nói riêng thì xã hội cũng không khỏi băn khoăn, lo lắng trước những hiện tượng một bộ phận Thày giáo tha hóa về đạo đức, nhân cách. Một bộ phận Thày giáo chạy theo lối sống kiếm tiền, tự đánh mất mình, mất lòng tin của xã hội, làm hình ảnh của mình xấu dần trong mắt học trò. Đau lòng hơn, còn có những thầy cô vô tâm hành hạ, đánh đập, dùng áp lực, xúc phạm đến nhân cách học trò... Những hiện tượng đó làm cho xã hội và gia đình không khỏi hoang mang, phẫn nộ và lên án gay gắt, gây ra những hệ luỵ tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của nhân dân.
 
2. Rèn luyện đạo đức người thày giáo.
 
     Trong giai đoạn hiện nay, trước những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị bị chi phối bởi đồng tiền, do đó người thầy phải biết giữ mình, tránh xa mọi cám dỗ tầm thường, giữ cho tâm hồn trong sáng, mọi hành vi phải nâng lên thành văn hóa trong đối nhân xử thế, từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất. Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ là một chiến lược quan trọng của quốc gia mà trọng trách lớn được đặt trên vai những nhà giáo. Vì vậy, thầy cô giáo chính là tấm gương để học sinh noi theo. Khi tấm gương ấy thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ hạn chế và sớm bị loại trừ. Chính vì vậy, để nâng cao phẩm chất đạo đức của nhà giáo, mỗi một thầy, cô giáo phải hiểu, thấm nhuần tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh về giáo dục; mỗi người phải không ngừng rèn luyện để hoàn thiện lối sống, nhân cách của mình; sống có tấm lòng nhân ái, làm việc có trách nhiệm với danh dự nghề nghiệp và xã hội.
 
         Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng nền đạo đức mới, trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, Ngay từ năm 2008, Bộ GD&ĐT đã có quyết định số 16/2008/QĐ- BGDĐT ban hành Quy định về đạo đức nhà giáo. Theo quyết định này, các điều 3,4,5 và 6 đã nêu rất cụ thể:
 
Điều 3. Phẩm chất chính trị của người thày.
 
1. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trư¬ơng, đ¬ường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nư¬ớc; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
 
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
3. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. 
 
Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp.
 
1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, l¬ương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, th¬ương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lư¬ợng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
 
2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trư¬ờng, của ngành. 
 
3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
 
4. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
 
Điều 5. Lối sống, tác phong.
 
1. Sống có lý tư¬ởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
 
3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
 
4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự,  phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.
 
5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
 
6. Xây dựng gia đình văn hoá, thư¬ơng yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.
 
Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
 
1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân. 
 
2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
 
3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
 
4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, ngư¬ời khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.
 
5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
 
6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.
 
7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
 
8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng.
 
9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
 
10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường.
 
11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như : cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.
 
Trên đây là những quy định đạo đức nghề nghiệp của người Thày giáo mà Bộ GD&ĐT đã ban hành. Mới đây ngày 07 tháng 05 năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo lại có Chỉ thị Số: 1737/CT-BGDĐT về việc tăng cường công tác quản lý nâng cao đạo đức Nhà giáo.
 
Để thực hiện được những điều quy định trên, Người thầy phải luôn trau dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của mình, điều đó là vừa yêu cầu tự thân của mỗi nhà giáo, vừa là yêu cầu cả xã hội đặt ra; người thầy phải luôn: “Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, tự rèn luyện”. Mặt khác, Người thầy phải ngày đêm trau dồi kiến thức, kinh nghiệm của bản thân để truyền lửa cho thế hệ mai sau, cho sự nghiệp trồng người. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục càng phải nhận thức đúng đắn vai trò, bổn phận và trách nhiệm to lớn của mình; ra sức thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang của sự nghiệp trồng người mà Ðảng, nhân dân đã tin yêu và giao phó.
 
     Hơn lúc nào hết, chúng ta cần xây dựng đội ngũ những người làm công tác giáo dục có đầy đủ phẩm chất, năng lực, vừa “hồng”, vừa “chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Điều này không những để khẳng định tri thức, trình độ phát triển giáo dục của dân tộc, mà còn góp phần quan trọng cho thắng lợi của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước.
 
3. Vai trò của Thày giáo trong sự nghiệp đổi mới giáo dục
 
     Hội nghị Trung ương 8 khóa Xl ngày 4/11/2013 đã có nghị quyết số 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Để đạt được những mục tiêu đó, cần phải có sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó người thầy đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền giáo dục nước nhà.
 
Trước những đặc trưng của nhà trường phổ thông trong giai đoạn mới, Giáo dục nước ta đã đặt ra mục tiêu giáo dục mới, theo đó giáo dục phải hướng tới hình thành phẩm chất và năng lực của người học gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Do đó, chương trình mới, sách giáo khoa phổ thông mới được xây dựng theo hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả về phẩm chất và năng lực, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của học sinh; tăng cường tính tương tác trong dạy và học; coi trọng việc gắn liền kiến thức giảng dạy với thực tiễn cuộc sống. Những thay đổi của giáo dục và nhà trường trong bối cảnh mới đã đặt ra những yêu cầu mới đối với người Thày giáo, đòi hỏi người Thày giáo phải có những vai trò mới trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
 
3.1. Người Thày giáo phải là tấm gương học suốt đời
 
Học mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và xã hội. Sự học nghiêm túc nào cũng mang lại lợi ích cho người học từ khía cạnh  phương pháp học và rèn luyện não bộ. Ngày nay, việc “học suốt đời” đã trở thành thực tế, mọi người có điều kiện để học cái mà mình yêu thích nhất ở bất kì lứa tuổi nào. Các tiến bộ về công nghệ sẽ cho phép việc học suốt đời, học mọi nơi, mọi lúc có thể được trở thành hiện thực, lan rộng ra toàn thế giới.
 
Trong nghề dạy học, chất lượng học tập của học sinh và chất lượng hoạt động sư phạm của Thày giáo có tương quan tỉ lệ thuận với nhau. Để đảm bảo chất lượng học tập của học sinh cần quy định về trình độ năng lực của Thày giáo. Vì thế, chuyên nghiệp hóa nghề dạy học là cam kết của ngành đối với xã hội về chất lượng của lực lượng lao động nghề. Đó cũng là cách để khẳng định giá trị của nghề sư phạm trong xã hội.
 
Chất lượng hoạt động là mặt bên ngoài của năng lực Thày giáo, là sự huy động đúng lúc các kiến thức, hiểu biết và kĩ năng tác động thích hợp với những tình huống sư phạm diễn ra hàng ngày trong đời sống nhà trường. Không ai có sẵn khả năng như vậy. Để đáp ứng được yêu cầu đó, người Thày giáo phải trải qua một quá trình học tập và thực hành tay nghề một cách tích cực và kĩ lưỡng, từ đào tạo ban đầu đến bồi dưỡng liên tục trong thực tiễn hành nghề. Tuy nhiên, dù được đào tạo đến trình độ nào người Thày giáo vẫn luôn đứng trước yêu cầu phải tiếp tục học tập và học tập không ngừng ngay cả trong quá trình công tác tại trường.
 
Việc học tập của Thày giáo rất quan trọng bởi nhiều lí do. Trước hết, trong kỉ nguyên công nghệ thông tin, tri thức nhân loại gia tăng một cách nhanh chóng. Trong nghề dạy học, cập nhật tri thức trong lĩnh vực khoa học chuyên ngành cũng như tri thức nghề đòi hỏi người Thày giáo học tập không ngừng để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của người học.
 
Trong nghề dạy học, việc học tập của Thày giáo còn mang ý nghĩa như một năng lực nghề bởi chức năng giáo dục ngày nay được nhấn mạnh đến việc dạy cho học sinh cách học. Kinh nghiệm cách học của thầy là nền tảng để thầy có thể thấu hiểu những khó khăn, những cản trở học tập của học sinh cũng như những ẩn chứa đằng sau các hành vi, biểu hiện học tập bên ngoài của học sinh. Những kinh nghiệm và kĩ năng học tập của thầy là những bài học quý để thầy biết cách hướng dẫn học sinh học. Chính vì thế, Thày giáo còn được yêu cầu trở thành chuyên gia về học tạp suốt đời với ý nghĩa đó.
 
Mặt khác, sự phát triển của Thày giáo vừa là nhu cầu tự thân của Thày giáo vừa là yêu cầu của quản lí ngành để bảo đảm chất lượng đội ngũ Thày giáo và nâng cao, cải thiện chất lượng thực tiễn giáo dục của nhà trường. Học tập của người Thày giáo trong giai đoạn đang công tác chủ yếu diễn ra trong thực tiễn và từ thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Học tập của Thày giáo gắn liền với “sự nỗ lực để tạo ra sự thay đổi ở thực tiễn lớp học, ở chính niềm tin và thái độ nghề nghiệp của họ”. Quá trình nghiên cứu cải tạo thực tiễn dạy học của Thày giáo chính là quá trình học tập, phát triển của Thày giáo. Ở đây hoạt động thực tiễn trở thành đối tượng trực quan để tư duy, nhận thức lại, phê phán và cải tạo. Quá trình học bằng trải nghiệm như vậy sẽ làm cho thực tiễn được cải thiện và cả Thày giáo và cả học sinh đều có được sự tiến bộ. Trong nhà trường, việc Thày giáo quan sát, dự giờ các tiết học của nhau, cùng nhau phân tích các diễn biến học tập của học sinh dưới các tác động sư phạm và trao đổi với nhau về cách khắc phục hạn chế, khó khăn, ... là phương thức để học tập lẫn nhau rất có hiệu quả.
 
3.2. Người Thày giáo phải là nhà giáo dục chuyên nghiệp
 
Thày giáo là người có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong các thiết chế giáo dục của xã hội và được trả công cho công việc của mình. Điều này để nhấn mạnh đến trách nhiệm đạo đức, pháp lí của Thày giáo trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Hơn nữa, Thày giáo là thành viên của cộng đồng nghề, tức là đảm trách một lĩnh vực hoạt động căn bản trong đời sống để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì thế, trách nhiệm với công việc, với nghề là một yêu cầu đạo đức. Ở đây, đạo đức nghề nghiệp bao gồm cả hai khía cạnh: đạo đức với cá nhân, với các đối tượng mà mình phục vụ; và đạo đức với xã hội đã giao phó nhiệm vụ cho mình. Hai khía cạnh này có liên quan mật thiết với nhau, tuy nhiên có sự khác nhau nhất định. Đạo đức với người học thể hiện ở sự tin tưởng, sự quan tâm, yêu thương và đặt kì vọng cao hơn đối với người học trong quá trình giáo dục họ. Đạo đức với xã hội thể hiện ở ý thức trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ được giao, đóng góp vào sự tiến bộ, văn minh của xã hội và sự phát triển của cộng đồng nghề nói riêng.
 
Thày giáo là người được đào tạo để làm nghề dạy học, thực hiện chức năng giáo dục của xã hội. Một trong những khác biệt lớn nhất với những người làm giáo dục khác là người Thày giáo phải trải qua quá trình được đào tạo về nghề để có đủ những phẩm chất và năng lực thích hợp để làm nghề. Xã hội ngày càng văn minh và yêu cầu về hoạt động nghề ngày càng cao thì những yêu cầu đối với người làm nghề càng phức tạp, cần thiết phải có những đào tạo chuyên biệt.
 
Trước hết, Thày giáo được đào tạo để làm nhà giáo dục (theo nghĩa rộng). Điều này khẳng định vai trò của nhà giáo dục chuyên nghiệp, thực hiện sứ mệnh cải tạo xã hội và phát triển toàn diện học sinh bằng năng lực tư duy và năng lực hành động trên những luận cứ khoa học và nhân văn. Thày giáo trước hết phải là nhà giáo dục với hai nhiệm vụ cốt lõi là giáo dục và dạy học, hay giáo dưỡng. Điều này nhấn mạnh trách nhiệm trang bị cho học sinh kiến thức, hiểu biết thế giới khách quan, cách học để học sinh không ngừng phát triển nhận thức, trí tuệ, có thế giới quan khoa học và đồng thời, có trách nhiệm tạo ra những cơ hội hoạt động và giao lưu trong lớp học, trường học và trong cộng đồng để xây dựng sức khỏe thể chất và tinh thần, những xúc cảm và kĩ năng cần thiết, cơ bản cho nhân sinh quan của học sinh. Vì thế, việc hỗ trợ cho học tập và phát triển của học sinh được xem là điều kiện sống còn cho sự thành công của người Thày giáo.
 
Người Thày giáo, bằng lao động chuyên nghiệp của mình tạo ra sự thay đổi, phát triển ở đối tượng giáo dục. Ở đây nhấn mạnh đến nhiệm vụ tổ chức và lan truyền tương tác học tập ở người học, bao gồm các tương tác đối tượng (giữa chủ thể học và đối tượng học tập) và các tương tác xã hội (giữa các chủ thể thực hiện hành động) cũng như tương tác của quá trình siêu học (giữa chủ thể với chính tư duy, phương pháp học tập của bản thân).
 
Hơn nữa, người Thày giáo còn có sứ mệnh vinh quang để lan tỏa, thắp sáng lòng nhân ái, tình yêu thương và lòng khát khao trí tuệ, cảm xúc lành mạnh trong mỗi cá nhân và cộng đồng, tức là thực hiện chức năng đạo đức – nhân văn trong xã hội.
 
Chức năng giáo dục mà người Thày giáo ngày nay được giao phó đã được nâng cao, không đơn thuần chỉ là việc tuyên truyền, giáo huấn những kiến thức, hành vi, giá trị đến người học, mà còn phải giữ vai trò của người định hướng, tổ chức, hỗ trợ cho quá trình học tập và phát triển của người học. Điều đó cho thấy những yêu cầu về mục tiêu phát triển năng lực người học đã đặt ra những nhiệm vụ phức tạp hơn đối với người Thày giáo về việc xác định mục tiêu giáo dục lâu dài và trước mắt cho phù hợp với từng người học khác nhau và tổ chức cho người học học một cách hiệu quả và chất lượng nhất trong bối cảnh thực tế của mình. Vì thế, Thày giáo buộc phải có được năng lực sư phạm để có thể chủ động trong việc hoàn thành mục tiêu mà chương trình đặt ra, tức là phải được đào tạo kĩ càng về sư phạm học.
 
3.3. Người Thày giáo phải là nhà nghiên cứu thực hành
 
Nhà trường là một xã hội thu nhỏ, đại diện cho cuộc sống hiện tại. Vì thế, hoạt động của mỗi nhà trường, mỗi lớp học cũng luôn vận động và chứa đựng nhiều vấn đề tương tự như xã hội. Người ta nhận định rằng những nhu cầu mới của xã hội hiện nay và các tiến bộ mới trong khoa học và công nghệ đang kết hợp với nhau tạo thành một cuộc cách mạng mới về giáo dục, có triển vọng làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của các hệ thống giáo dục trên thế giới trong một vài thập kỉ tới.
 
Định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục của nước ta những năm tới đây vừa phù hợp với sự phát triển chung của xã hội toàn cầu vừa nhằm khắc phục, giải quyết những hạn chế về chất lượng giáo dục của chúng ta. Đổi mới giáo dục trong bối cảnh xã hội phát triển nhanh và phức tạp đòi hỏi người trí thức nói chung và người Thày giáo nói riêng phải có tư duy phê phán và giải quyết vấn đề.
 
Trong thực tiễn của nhà trường, lớp học luôn tồn tại những yếu tố có ảnh hưởng không mong đợi đến việc dạy và việc học. Để duy trì và phát triển nhà trường với tư cách là một thể chế xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động là một mục tiêu chiến lược. Vì thế, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề nảy sinh, cải tạo những yếu tố cản trở là nhiệm vụ thường xuyên của người làm giáo dục. Điều này nhấn mạnh rằng Thày giáo mới chính là người nghiên cứu và giải quyết những vấn đề của thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Đó là lí do chính để đòi hỏi người Thày giáo phải suy nghĩ và hành xử như một nhà nghiên cứu, giải quyết vấn đề của thực tiễn lớp học, thực tiễn nhà trường. Ở đây, việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn lớp học, trường học không chỉ được xem như một phản ứng nhất thời, cách xử lí đơn thuần dựa trên kinh nghiệm của cá nhân hay của một nhóm Thày giáo, mà nó phải là những giải pháp được đưa ra dựa trên kết quả của một quá trình nghiên cứu có tổ chức từ thu thập dữ liệu, bằng chứng và xử lí, phân tích một cách logic và giải pháp phải được thử nghiệm, đánh giá một cách chặt chẽ. Điều quan trọng là chính nhà trường, Thày giáo chủ động trong việc tổ chức nghiên cứu để làm cho trường mình, lớp mình ngày một tốt hơn.
 
Trong thực tế nhà trường hiện nay, yêu cầu Thày giáo viết sáng kiến kinh nghiệm của bản thân mình hoặc nhóm mình, chủ yếu của Thày giáo cốt cán có thành tích nổi trội, cũng là một hình thức khá tương đồng nhằm khuyến khích các Thày giáo tổng kết và chia sẻ, phổ biến kinh nghiệm thành công đến với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường. Tuy nhiên, trong nhà trường hiện đại, việc giải quyết vấn đề không chỉ của Thày giáo cốt cán, có nhiều thành tích, mà cần phải xem đó như là công việc của mỗi Thày giáo.
 
Trong mỗi nhà trường, mục tiêu nâng cao chất lượng luôn thúc đẩy Thày giáo tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy và học và cải tạo những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến việc dạy và việc học. Những kết quả nghiên cứu lí thuyết được áp dụng, thử nghiệm vào thực tiễn nhà trường, lớp học cũng sẽ trở nên phổ biến trong các môi trường khuyến khích văn hóa chất lượng.
 
Nghiên cứu tác động cải tạo thực tiễn giáo dục trong lớp, trong trường là mô hình thể hiện rất rõ vai trò nhà nghiên cứu của người Thày giáo trong nhà trường. Ở đây Thày giáo cùng nhau nghiên cứu tác động sư phạm của mình để đánh giá kết quả của nó trong thực tế. Người Thày giáo như nhà nghiên cứu thực hành ứng dụng vừa tìm tòi cái mới để áp dụng vào thực tiễn, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến học tập một cách có tổ chức trong phạm vi nhà trường. Các nghiên cứu tác động quy mô nhỏ đang dần dần chiếm ưu thế trong các trường học để tăng cường hiệu quả của việc học tập và quản lí dạy học.
 
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc nghiên cứu tác động như thế có tác dụng rất nhiều mặt: giúp cho Thày giáo nhận rõ được hiệu quả của phương pháp mình dùng đối với học tập của học sinh, những trục trặc, khó khăn, thiếu sót trong quá trình dạy và học để từ đó hiểu rõ hơn về phương pháp sư phạm của mình và có ý thức bổ sung, điều chỉnh. Thày giáo có những hiểu biết và kĩ năng nghề sâu sắc hơn và tự tin hơn; việc học tập của học sinh được Thày giáo quan tâm, nắm rõ và được cải tiến và do đó sẽ có kết quả tốt hơn; và trong chừng mực nhất định tổ chức nghiên cứu tác động theo nhóm Thày giáo còn mang đến sự hỗ trợ, phối hợp cùng nhau, Thày giáo gần gũi, cộng tác với nhau chặt chẽ hơn, làm cải tạo cả không khí của tập thể nhà trường.
 
Như vậy, khi Thày giáo nghiên cứu, cải tạo thực tiễn giáo dục của nhà trường bằng những tác động sư phạm, người Thày giáo đã trở thành nhà nghiên cứu thực hành, ứng dụng.
 
3.4. Người Thày giáo phải là nhà canh tân xã hội
 
Giáo dục bản thân nó là để làm thay đổi, làm mới người học và qua đó làm mới xã hội theo hướng tăng trưởng, tích cực. Người Thày giáo với chức năng giáo dục của mình sử dụng tri thức và kĩ năng sư phạm để làm cho học sinh được giáo hóa, thay đổi và trưởng thành, như là kết quả của quá trình học tập của người học. Công tác đó người Thày giáo không làm đơn độc mà luôn có sự cộng tác, phối hợp và hỗ trợ của các thành phần khác trong xã hội, trước hết là của người học, cha mẹ các em và các đồng nghiệp. Sứ mệnh đó còn nhận được sự bảo trợ của xã hội và của chính quyền. Cùng chung mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, những đề xuất sư phạm dễ dàng nhận được sự ủng hộ, phối hợp của những thành viên khác trong xã hội. Có thể nói năng lực sư phạm của Thày giáo có khả năng lôi kéo những thành viên khác của xã  hội, trước hết là của cha mẹ và các tổ chức xã hội có chức năng giáo dục vào việc tạo ra các môi trường mang tính giáo dục cho người học. Môi trường gia đình, cộng đồng, xã hội trở nên mang tính “giáo dục” hơn vì mục tiêu giáo dục và phát triển của nhà trường cho trẻ em. Thực chất đó là biểu hiện của sự thay đổi ở những người tham gia cộng tác cùng nhà trường trong việc giáo dục trẻ em. Họ tin tưởng và tự nguyện “đầu tư” cho con em mình, cho tương lai của cộng đồng, của đất nước, của nhân loại. Và kết quả là họ cũng thay đổi về nhận thức và việc làm trong giáo dục trẻ em. Trong một chừng mực nhất định, các lực lượng xã hội đã được “giáo hóa” từ tác động của Thày giáo, nhà trường. Ý thức và trau dồi khả năng sư phạm trong công tác giáo dục đồng nghĩa với việc thu hút và nâng cao trách nhiệm, năng lực  giáo dục và các thành phần có sự cộng tác với mình trong việc giáo dục trẻ em.
 
Nhà trường và xã hội có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế, đổi mới xã  hội và đổi mới nhà trường luôn thúc đẩy lẫn nhau. Xã hội thay đổi đòi hỏi sự thay đổi, đáp ứng của nhà trường, và bên cạnh đó, nó cũng cung cấp cho nhà trường những điều kiện, phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ một cách thích đáng, trong đó có cả sự ủng hộ bằng những thay đổi ở hoàn cảnh, môi trường, hành vi, hoạt động, lối sống của xã hội. Thực chất  xã hội đã phải chấp nhận sự “đổi mới” để phù hợp với những nhiệm vụ giáo dục mà nó đã đòi hỏi ở nhà trường.
 
Quá trình đổi mới thực tiễn giáo dục nhà trường, lớp học nhằm thúc đẩy người học phải học một cách tích cực, độc lập và phát huy tính độc đáo của cá nhân diễn ra trong các giờ học, các hoạt động, các công tác xã hội và các công tác quản lí nhà trường đã cho học sinh những bài học kinh nghiệm hành động và cảm xúc trong việc chia sẻ, đóng góp ý kiến xây dựng, tham gia giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn và được thừa nhận. Những trải nghiệm này sẽ khuyến khích học sinh thể hiện trong cuộc sống của các em ở gia đình, ngoài xã hội. Như vậy, thông qua học sinh, những thay đổi trong dạy học của Thày giáo đã thắp lên ngọn lửa về quyền tham gia, quyền dân chủ trong xã hội, về mối quan hệ giữa con người với con người. Như vậy, người Thày giáo không chỉ đơn giản tham gia vào việc rèn luyện các cá nhân học sinh, mà thông qua giáo dục học sinh của mình, Thày giáo đã tham gia vào việc xây dựng đời sống văn hóa, xã hội. Nói như nhà triết học chuyên nghiên cứu về tâm lí học thực hành và chuyên về sư phạn Dewey “giáo dục là phương pháp cơ bản của tiến bộ và cải cách xã hội”.
 
Như vậy, vai trò của Thày giáo trong nhà trường hiện đại đã được mở rộng, không chỉ là nhà sư phạm mà còn là nhà nghiên cứu hành dụng trong thực tiễn của nhà trường, nhà canh tân xã hội và người học suốt đời. Mặt khác, mỗi vai trò cũng có những chức năng nhiệm vụ mới, mở rộng và sâu sắc, tinh tế hơn khi điều kiện xã hội và trình độ của các thành viên đã được phát triển cao hơn. Điều đó cho thấy việc thúc đẩy sự phát triển của Thày giáo là đòi hỏi có tính sống còn của nhà trường và của nghề dạy học cũng như của chính Thày giáo.
 
4. Các năng lực chung cần có của Thày giáo trong đổi mới giáo dục hiện nay
 
Hoạt động của người thầy giáo biểu hiện ở tất cả các hình thức khác nhau của công tác sư phạm nhưng tựu trung lại ở 2 dạng hoạt đông đặc trưng: Công tác dạy học, công tác giáo dục trên lớp và giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ tương đối vì khi tiến hành công tác dạy học thì cũng đã đạt được mục đích giáo dục, ngược lại, muốn giáo dục thì cũng phải dựa trên cơ sở dạy học. Theo chức năng của người Thày giáo, có thể phân biệt hai nhóm năng lực: Nhóm năng lực dạy học và nhóm năng lực giáo dục (nghĩa hẹp). Trong thực tế, người Thày giáo thực hiện chức năng dạy học và giáo dục một cách đan xen, hoà quyện với nhau cho nên có thể trình bày các nhóm năng lực sư phạm cơ bản của người Thày giáo một cách khái quát hơn như sau:
 
4.1. Năng lực chẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học
 
Năng lực chẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học là một trong những năng lực được nhấn mạnh trong kiểu dạy học “tập trung vào học sinh và hoạt động học”. Trong thực tế, biết chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học mới có thể thiết kế kế hoạch dạy học phù hợp. Năng lực này đòi hỏi những kỹ năng như soạn phiếu phỏng vấn, tổ chức điều tra cơ bản, xây dựng hồ sơ đối tượng dạy học… Chỉ  khi nắm vững đối tượng, Thày giáo mới có thể điều khiển quá trình dạy học có hiệu quả. Khả năng thâm nhập vào thế giới bên trong của học sinh, hiểu biết tường tận đặc điểm, tính cách và hoàn cảnh của mỗi em, quan sát tinh tế những diễn biến tâm lý của chúng là một năng lực then chốt để thành công.
 
“Dạy học là một khoa học, một công nghệ và một nghệ thuật; Thày giáo phải rất năng động thích nghi với những diễn biến trong tâm lý học sinh và trong môi trường dạy học. Ví dụ Thầy nói gì đó mà cả lớp ngẩn mặt ra thì lập tức phải tự phê bình để sửa, chứ không bám lấy những gì đã chuẩn bị trong giáo án”.
 
4.2. Năng lực thiết kế và lập kế hoạch dạy học 
 
Một đặc điểm rất cơ bản của giáo dục nhà trường là được tiến hành có mục đích, có kế hoạch dưới sự chỉ đạo sát sao của Thày giáo, do đó năng lực xây dựng kế hoạch là cần thiết cho mọi hoạt động dạy học.
 
Năng lực này đòi hỏi những kỹ năng như nghiên cứu mục tiêu, nội dung chương trình sách giáo khoa, cấp học, lớp học, môn học, dựa vào đặc điểm đối tượng đã khảo sát để lập kế hoạch phù hợp, khả thi, có thể kiểm soát được, đánh giá được. Bản kế hoạch có định rõ đầu vào mục tiêu (các điều kiện) và đầu ra (sản phẩm), các hoạt động cùng với tiến độ, phân công trách nhiệm (thực hiện vào thời điểm nào? ở đâu? Do những ai thực hiện?)…
 
Những kỹ năng này giúp Thày giáo nhìn thấy trước và lập kế hoạch, lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện, phương thức tiến hành các hoạt động chính của mình cũng như của học sinh; dự kiến các tình huống có thể xảy ra, nhất là những hành vi bột phát và dự kiến giải pháp để xử lý. Làm như vậy, Thày giáo luôn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình giáo dục.
 
4.3. Năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học 
 
Trên cơ sở kế hoạch dạy học, Thày giáo thực hiện nhằm biến các mục tiêu dự kiến thành kết quả hiện thực. Năng lực này đòi hỏi biết lựa chọn, phối hợp hợp lý các phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, biết phát triển năng lực tự học của học sinh, biết truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở lên vừa sức với học sinh, biết gắn liền lý luận và thực tiễn để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học. 
 
Năng lực này cũng đòi hỏi Thày giáo phải có kỹ năng giao tiếp (với học sinh, phụ huynh, cộng đồng địa phương…). Kỹ năng này được thể hiện biết nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của đối tượng giao tiếp, biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết tổ chức, điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm tạo ra mối quan hệ hợp tác, cộng tác, thông qua đó mà đạt được mục đích giáo dục.
 
Thày giáo phải có kỹ năng quản lý hoạt động dạy học trong phạm vi trách nhiệm của mình, lôi cuốn sự tham gia nhiệt tình của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
 
Việc hình thành kỹ năng như vậy, không phải dễ dàng mà nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc và rèn luyện tay nghề công phu.
 
4.4. Năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học
 
Đánh giá không đơn thuần là sự ghi nhận thực trạng, kết quả mà còn là vấn đề đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng theo hướng mục tiêu. Theo hướng dạy học hướng vào hoạt động của học sinh, Thày giáo không những phải biết đánh giá chính xác, công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh mà còn phải hình thành cho các em khả năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, qua đó mà tự động điều chỉnh cách học, đồng thời, Thày giáo tự điều chỉnh cách dạy cho hợp lý. Muốn vậy, Thày giáo phải nắm vững và biết phối hợp các phương pháp, kỹ thuật kiểm tra, đánh giá (truyền thống và hiện đại).
 
4.5. Năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn dạy học
 
Thành công trong dạy học phục thuộc một phần rất trong quan trọng vào năng lực phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong hoạt động nghề nghiệp.
 
Năng lực này dựa trên một loạt các kỹ năng như phát hiện, nhận dạng vấn đề, phát biểu vấn đề, phát triển vấn đề cần giải quyết thành đề tài nghiên cứu, xây dựng giả thiết khoa học, xây dựng đề cương nghiên cứu, bố trí điều tra cơ bản, thực nghiệm sư phạm, xử lý kết quả điều tra và thực nghiệm, viết báo cáo khoa học, ứng dụng triển khai kết quả nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm dạy học.
Trên đây là toàn bộ cấu trúc nhân cách người Thầy giáo, trong đó có hai thành phần lớn: các phẩm chất và các năng lực cơ bản. Những thành phần trong cấu trúc nhân cách nêu trên giúp cho người thầy giáo thực hiện chức năng cao cả “Những nấc thang” của tuổi trẻ hôm nay và mai sau, đồng thời, chính trong thực tiễn hoạt động sáng tạo của người “Kỹ sư tâm hồn” những thành phần đó lại càng được phát triển. 
 
Kết luận 
 
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục đều chỉ ra rằng Thày giáo chính là yếu tố có tính quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Để làm được điều đó, người Thày giáo cần phải có “Tâm” “tài” Đức”  như khi sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Ngày nay, vai trò của người Thày giáo có những thay đổi theo hướng đảm nhiệm nhiều chức năng hơn: đó là chức năng của nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà nghiên cứu và người học. Ở nước ta, ngoài những xu hướng chung của toàn cầu hóa, người Thày giáo phổ thông còn đứng trước việc thực hiện Đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa. Điều này lại càng đòi hỏi người Thày giáo phải đáp ứng những yêu cầu mới, cao hơn, nặng nề hơn. Và để thực hiện được Đề án Đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa, mỗi người Thày giáo cần phải tự mình nỗ lực rèn luyện đạo đức, lối sống và nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ nhiều hơn, đồng thời ngành giáo dục cũng phải có những chính sách phù hợp để hỗ trợ người Thày giáo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong bối cảnh mới.
---------------------------------------
* Tham luận tại Diễn đàn khoa học "Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay" ngày 28/8/2019 do Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức.