Nội san

Xuân Hồng với những chặng xuân

13 Tháng Mười Hai 2010

TS. Nguyễn Đăng Nghị

 

Ông sinh 12-12-1928 tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh và mất năm 1996 tại TP. Hồ Chí Minh. Tham gia cách mạng ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, nhạc sĩ Xuân Hồng đã dùng âm nhạc để động viên, cổ vũ nhân dân tham gia đấu tranh, đánh đuổi ngoại xâm. Các tác phẩm của Xuân Hồng là tiếng nói chân thực, giản dị nhưng cũng rất đỗi lạc quan yêu đời.

 

Từ Xuân chiến khu…

Năm 1954, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Trong đoàn văn nghệ sĩ "Bắc tiến" không có Xuân Hồng, ông đã ở lại tuyến lửa, cùng nhân dân đánh giặc. Sau phong trào Đồng Khởi, nhân dân miền Nam vẫn tiếp tục nổi dậy, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang chống lại Mỹ-Ngụy. Để đối phó với phong trào đấu tranh ngày càng lan rộng của nhân dân ta, Mỹ đã thực hiện thí điểm chiến tranh toàn cầu mới ở miền Nam và đề ra chiến lược Chiến tranh Đặc biệt. Những cuộc càn quét ráo riết, những cuộc dồn dân vào ấp chiến lược liên tiếp xảy ra, không khí chiến tranh ở miền Nam trong những năm tháng này rất ngạt thở và khốc liệt.

Trước tình hình đó, nhiều nhạc sĩ, mà Xuân Hồng là một trong số đó, đã tìm cách “tiếp lửa” cho đồng bào miền Nam ruột thịt bằng lời ca, tiếng hát. Ông là người chiến sĩ, nhạc sĩ của nhân dân. Ca khúc của ông là tiếng nói chứa chan tình yêu thương và gieo niềm hy vọng vào trái tim hàng triệu đồng bào giữa lúc miền Nam đang rên xiết dưới ách kìm kẹp của Đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Trong đời sống âm nhạc của nhân dân miền Bắc lúc đó, cái tên Xuân Hồng luôn được xuất hiện trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, cũng như trong nhiều chương trình biểu diễn của các đoàn ca múa nhạc chuyên nghiệp. Giai điệu cũng như lời ca trong các tác phẩm của ông luôn tạo được chất men cuốn hút người nghe. Xuân Hồng luôn quan niệm, âm nhạc là để phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Trong đó, Xuân chiến khu ra đời trong dịp mừng chiến công của quân và dân ta đánh thắng chiến tranh đặc biệt của Mỹ-Ngụy là ca khúc sớm nhất và phổ biến nhất ở chiến trường Nam Bộ.

 

 

 Khi công tác tại Đoàn Văn công Giải phóng, Xuân Hồng được giao trách nhiệm sáng tác một bài hát cho chương mới, ông suy nghĩ mãi về chủ đề hát mừng thắng lợi trong những dòng hồi ức của mình: "Về âm nhạc, tôi dự định tìm một giai điệu trong sáng, tươi trẻ và duyên dáng, có âm hưởng dân tộc... Tôi lục trong đầu cái vốn cổ đã được trang bị chút đỉnh mà bấy lâu nay ít dùng tới... Bỗng nhiên tôi cảm giác thấy bài Bình Bán vang lên một âm hưởng rất xuân, có không khí vui tươi, lạc quan, giản dị, trong sáng... Bài Xuân chiến khu viết nhạc xong nhưng lời chưa xong, thì chúng tôi nhận được lịnh... đi phục vụ cho Tiểu đoàn Hai, Trung đoàn Một, trước khi đơn vị xuất quân đi chiến đấu"(1).

Ý thức chắt chiu nhựa sống từ tâm hồn dân tộc thế là đã rõ, nhưng vẫn chưa đủ, bởi phần lời cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Lại một sự tìm kiếm nữa đối với nhạc sỹ trong cảnh chiến trường gầm vang tiếng súng. Ông đã hoà vào không gian thiên nhiên để tìm cho ra cái phần còn lại của dòng âm thanh kỳ vĩ kia. Và khi không gian ở thời điểm "sắp bước vào mùa xuân, rừng miền đông thật đáng yêu... Những cụm mai vàng nở rực cả một góc rừng, những tiếng chim ca gợi cảnh thanh bình. Vừa hành quân tôi vừa ngẫm nghĩ tìm ý, tìm lời. Những câu, những ý nghĩ ra, tôi liền lấy bút bi ghi trên bắp tay. Sau một ngày hành quân đến căn cứ Tiểu đoàn Hai, trên bắp tay trái tôi đầy chữ xanh rờn như xăm mình. Lời bài Xuân chiến khu coi như hoàn tất"(2): Mùa xuân về trong chiến khu, tiếng chim rừng vang hót khắp nơi, mùa xuân về trong chiến khu, gió đưa cây rừng cành lá vi vu, chim hót mừng mùa xuân thắng lợi...

Chúng ta nhận thấy, sau khi Xuân chiến khu ra đời, âm nhạc Việt Nam đã có một số ca khúc về mùa xuân. Nếu Bến xuân (sau là Đàn chim Việt, của Văn Cao) có chút buồn xa vắng; Tình ca (của Hoàng Việt) là cái hào sảng của sự ngạo nghễ, thì Xuân chiến khu là tiếng ca của niềm vui tươi phơi phới, cùng chung âm hưởng với Cùng hành quân giữa mùa xuân (của Cẩm La) và một số ca khúc khác viết vào cuối những năm 60, đầu những  năm 70 của thế kỷ XX. Cái phơi phới, hào sảng không còn là sự hô xướng mà đã đi vào chiều sâu của nội tâm. Có được điều ấy, một mặt cũng là do hoàn cảnh lịch sử mang lại, nhưng cơ bản vẫn là chất văn hóa cũng như tài năng trong từng người nhạc sĩ. Riêng đối với Xuân Hồng, ông sinh ra trên mảnh đất vốn có truyền thống âm nhạc, đồng thời lại là một căn cứ cách mạng, ông đã có sự ứng xử hài hòa giữa quê hương và cách mạng, giữa văn hóa và kháng chiến. Cũng chính từ cách ứng xử văn hóa ấy đã tạo nên  một Xuân Hồng với phong cách và bút pháp về âm nhạc không thể lẫn với bất kỳ ai. Như bao nhạc sĩ khác, Xuân Hồng đã trải qua giai đoạn chuyển mình, từ người dân thành chiến sĩ, nhạc sĩ với tổ quốc, với nhân dân. Nhưng ông là con người điển hình "không phải điển hình của sự trăn trở để đổi mới, mà là điển hình của sự bắt rễ hút nhựa từ truyền thống lâu đời của quê hương, điển hình của một chiến sĩ - chiến đấu bằng cây súng và cây đàn - trở thành nhạc sỹ ngay giữa chiến trường ác liệt - trong giới chuyên nghiệp không phải bất kỳ ai cũng có thể tự hòa như vậy"(3). Xuân chiến khu như một dòng nước mát giữa chiến trường nóng bỏng, động viên tinh thần quân, dân hai miền hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước.

 

 …tới Xuân trong hòa bình và Xuân của tình người. 

Với đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Đó là kết quả của một quá trình cách mạng với "ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông, ba mươi năm dân chủ cộng hoà, kháng chiến đã thành công” (lời bài hát Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên). Xuân Hồng cũng nhìn thấy sự đổi thay trên quê hương đất nước, đặc biệt là trên thành phố mang tên Bác: "Mùa xuân này về trên quê ta, khắp đất trời biển rộng bao la, cây xanh tươi ra lá trổ hoa... ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào, Sài Gòn ơi cả nước vẫy chào, cờ sao đang tung bay cao...". Niềm vui là vậy, nhưng âm nhạc không phải là sự hào sảng, hay tung hô, mà có chút gì đó như đang lắng lại. Một sự chuyển đổi nữa trong tâm thức, nhận thức của ông trong hoàn cảnh mới. Chúng ta phải xuất phát từ cách nhìn ấy mới thấy được những nét riêng của nhạc sĩ Xuân Hồng.

 

 

Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Hồng vừa hòa vào niềm vui chung của cả nước, nhưng đồng thời cũng là người đứng ngoài quan sát, để có thể cảm nhận được trọn vẹn nhất không khí hân hoan của đất trời và lòng người. Một niềm vui ngập tràn, một niềm vui sau ba mươi năm đằng đẵng xa cách. Lời hát "Vui sao nước mắt lại trào" thể hiện một cung bậc tình cảm ở chiều sâu, đó là cảm xúc của một con người từng trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Trong cuộc chiến đó, ông đã từng trải qua bao nhiêu gian khổ, tận mắt chứng kiến những đồng đội ngã xuống vì sự thống nhất nước nhà. Cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa đã giành được độc lập dân tộc, đó là thiên anh hùng ca sáng chói, đáng tự hảo của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, giai điệu mang tính bình ổn, không có đột phá lớn bằng những bước nhảy rộng, càng làm cho bài hát thiên về nội tâm hơn là sự hô xướng.

Chiến tranh với những đau thương những rất đỗi tự hào đã lùi vào quá khứ, tất cả hướng về phía trước, cùng nhau xây dựng đất nước. Cái ta hào sảng trong kháng chiến, lúc này đang từng bước nhường chỗ cho cái tôi của thời bình. Các nhạc sĩ cũng đã chuyển tâm thức và bút pháp trong các sáng tác của mình. Trong dòng chảy của sự chuyển đổi tâm thức nói chung, mỗi nhạc sỹ lại chọn cho mình những cách đi riêng, tùy thuộc vào nhãn quan, cách tiếp cận cũng như tài năng và kinh nghiệm của từng người. Đối với Xuân Hồng, cái tôi của ông không hề đơn lẻ, mà biết tư duy, đi vào chiều sâu, đối diện với chính mình và mang tính nhân văn.

Xuân Hồng đã nhập cuộc với cuộc sống đời thường, nhưng ông vẫn giữ vai trò quan sát: Quan sát để chiêm nghiệm, chiêm nghiệm để rút ra những điều tưởng như bình thường nhưng vô cùng có ý nghĩa với cuộc sống của mỗi con người. Ông đã có một bước đi khá táo bạo khi phổ nhạc bài thơ Mùa xuân bên cửa sổ (của tác giả Song Hào), một bải thơ đề cập tới tình yêu đôi lứa một cách chân thực và sinh động. Trước ông, chưa nhạc sĩ nào nhắc tới hình ảnh “nụ hôn” trong sáng tác của mình một cách thẳng thắn và mạnh bạo. Ở đây, chúng ta nhận thấy, nhạc sĩ Xuân Hồng không hề coi nhẹ nguyên tắc nghệ thuật, mà ngược lại, ông tôn trọng và kết hợp hài hòa giữa những nguyên tắc nghệ thuật đó với đời sống thực. Vẫn là môtíp thường gặp – tình yêu lứa đôi – nhưng qua cách nhìn của Xuân Hồng, tình yêu đôi trai gái thật thanh khiết, bay bổng, và dường như, nhịp sống sôi động, gấp gáp của cuộc sống thường nhật không hiện hữu, tất cả trở nên lắng đọng, nhẹ nhàng: "Cao cao bên cửa sổ. Có hai người hôn nhau. Đường phố ơi hãy im lặng. Cho hai người hôn nhau. Chim ơi đừng bay nhé. Hoa ơi hãy toả hương và cây ơi lay thật khẽ. Cho đôi bạn trẻ đón xuân về...". Như vậy, cái tài của Xuân Hồng chính là cách nhìn nhận vấn đề và sự chuyển đổi trong tâm thức để phù hợp với hơi thở cuộc sống, điều đó đã dẫn đến thành công trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Xuân kháng chiến, xuân thống nhất non sông và xuân xây dựng là những điểm nhấn trong hàng loạt tác phẩm của nhạc sĩ Xuân Hồng. Với tài năng và sự cống hiến lớn lao cho nền nghệ thuật âm nhạc nước nhà, năm 2000, ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Trong 6 tác phẩm nằm trong giải thưởng, thì có hai tác phẩm viết về mùa xuân, đó là Xuân chiến khuMùa xuân tên thành phố Hồ Chí Minh./.

                                                                                       N.Đ.N. 

 

1.2. PGS.TS Tú Ngọc - PGS.TS Nguyễn Thị Nhung - TS Vũ Tự Lân - Ngọc Oánh - Thái Phiên, Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu, Viện Âm nhạc, H.2000, tr.361.

3. Tuyển chọn ca khúc Xuân Hồng, Hội Nhạc sỹ Việt Nam - Nxb Âm nhạc, H.1994, tr.6.