Nội san

Những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của tranh dân gian Việt Nam tạo một điểm nhìn mới trong việc định hình giáo dục thẩm mỹ giai đoạn hiện nay

29 Tháng Mười Hai 2010

Tham luận Hội thảo

Giáo dục nghệ thuật và cuộc sống

 

GV. Võ Văn Lạc

Trường Đại học Đồng Tháp

 

1. Đặt vấn đề.

Giáo dục nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay đang là một vấn đề thách thức lớn trước sự phát triển thời đại, những phương pháp giảng dạy chương trình đào tạo giáo viên nghệ thuật đã không còn sát hợp với nhu cầu của xã hội. Các loại hình nghệ thuật đương đại, sự gắn kết và định hình phát triển thẩm mỹ dân tộc đang là một vấn đề cần được xem xét và coi trọng. Hệ thống giáo trình đào tạo giáo viên nghệ thuật của chúng ta hiện nay còn nặng tính thực hành, nhẹ tính lí luận nghiên cứu, khiến chúng ta đang bỏ quên những giá trị nghệ thuật mà cha ông để lại. Những giá trị biểu trưng từ tranh dân gian, nghệ thuật đình làng, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số… là tài sản vô cùng to lớn đáng trân trọng, cần có một chương trình nghiên cứu nghiêm túc nhằm lãnh hội chúng trong giảng dạy và giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Việc nghiên cứu di sản vốn cổ của cha ông làm nền tảng cho giáo dục thẩm mỹ đạt nhiều hiệu quả thiết thực, vừa cung cấp kiến thức cho sinh viên, vừa giáo dục ý thức tự tôn dân tộc, quý trọng những giá trị to lớn mà mỗi thế hệ đã sáng tạo nên, nhằm nuôi dưỡng những giá trị nghệ thuật đó sống mãi với thời gian. Điều đáng nói ở đây là, các chương trình đào tạo giáo viên mỹ thuật hiện nay chỉ dừng lại ở những bài học cơ bản, thiếu sát thực với thực tiễn cuộc sống. Đây là vấn đề nan giải cần nghiên cứu sâu hơn trong chiến lược phát triển giáo dục thẩm mỹ. Những quan điểm, kiến thức phân tích giá trị nghệ thuật dân gian dưới đây nhằm minh chứng cho những giá trị nghệ thuật có tính tiêu biểu của mỹ thuật dân tộc.

2. Những giá trị nghệ thuật và tính minh triết trong dòng tranh dân gian Việt Nam.

Quá trình hình thành và phát triển của mỗi dòng tranh luôn tồn tại bản chất đặc trưng văn hoá, tâm linh của cộng đồng người. Tính triết lí, tư duy sáng tạo trong tranh thể hiện âm hưởng của cuộc sống và ý thức hệ của từng cộng đồng người cụ thể. Đời sống tự nhiên luôn là mạch nguồn định hình tư duy sáng tạo của người dân trong quá trình lao động bởi lẽ “con người có sức mạnh tư duy, sáng tạo trên mọi lĩnh vực cuộc sống của con người và mọi hoạt động của con người”[9.43]. Người dân thông qua các hoạt động sinh sống của mình đã phát kiến ra những công cụ lao động, tranh ảnh và các đồ dùng sinh hoạt khác, cho ra đời những sản phẩm mà ngày nay ta vẫn gọi là “văn hoá dân gian” (Folklore).

2.1. Tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ:

Sự hình thành và phát triển của dòng tranh dân gian Đông Hồ có những thành tựu cũng như ý nghĩa riêng, một giá trị riêng. Từ môi trường công việc, chức năng và mục đích của dòng tranh đã tạo nên giá trị thẩm mĩ, từ đó, phản ảnh tư duy nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Thông qua môi trường nông nghiệp “nó tác động chi phối nhiều hoạt động, tư duy và lao động của con người, trong điều kiện đó con người sáng tạo ra các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn hoá nông nghiệp, nghệ thuật mang dấu ấn vùng, miền gắn với môi trường”[9.34]. Từ sự hình thành và phát triển ý thức hệ và tư duy lao động có tính vùng, miền làm cho dòng tranh Đông Hồ có giá trị minh triết riêng biệt.

Tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ chia ra mảng chúc tụng và thờ cúng. Ở mỗi thể loại, các nghệ nhân đi sâu khắc hoạ những nét tiêu biểu, tinh thần sinh hoạt và đời sống tâm linh của người dân làng Hồ. Như ở bức Đàn lợn (thuộc mảng chúc tụng) được mua về vào vào những ngày Tết, nghệ nhân đã khéo khắc hoạ hình tượng đàn lợn to béo ủn nũng, hình tượng vòng xoáy âm dương khắc hoạ ý đồ minh triết rất cụ thể “chính vòng âm dương và hình tượng con lợn đã chứng tỏ một nội dung liên quan chặt chẽ đến thuyết âm dương ngũ hành “[7.37]. Sự sắp xếp các con lợn quây quần bên nhau, giữa đàn lợn con và lợn mẹ hoà vào nhau tạo ra một bố cục chặt chẽ, thể hiện sự sinh sôi nảy nở. Sự phân chia các mảng lớn, nhỏ; cách bố trí màu “trong như xanh tự nhiên-chàm-vàng hoa hiên, đỏ-son trắng-điệp, đen-tro than, nâu-củ nâu “ [10.228] phối hợp vào nhau tạo ra gam màu “tươi sáng, nội dung vui vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hoá các khái niệm của triết học và tinh thần “[10.228]. Bức tranh đã thể hiện quan niệm triết lí của người Việt cổ khi khái quát cô đọng các hình tượng vào đời sống những con vật để thể hiện khát vọng, mong ước cho cuộc sống của họ. “Không những thế, tranh Đàn lợn còn chứng tỏ nguyên lí trong sự vận động của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành “ [7.40].

Thầy đồ cóc là bức tranh giàu ý vị có giá trị tư tưởng minh triết, biểu tượng cho nét văn hoá phương đông. Trong tranh, người nghệ nhân đã miêu tả cả thế giới cóc, nhái, ễnh ương rất nhộn nhịp trong lớp học của thầy ếch đang chễm chệ trên chiếc sập giảng bài. “Trong tổng thề bố cục bức tranh các nghệ nhân có ý thức đặt vào dòng chữ “Lão oa đọc giảng” tức là ông ếch một mình ngồi giảng dạy. Thông qua hình tượng con có với vai trò to lớn của nó trong quan niệm dân gian, các nghệ nhân đã khắc hoạ, đề cao cội nguồn vai trò của con cóc trong các sinh vậtBức tranh Thầy đồ cóc là chính là một mật ngữ hướng thế hệ con cháu tìm về cội nguồn tổ tiên “[7.45], đó là trung tâm, thể hiện tính đặc sắc của bức tranh cùng chiều sâu minh triết trong quan niệm của người dân Lạc Việt.

Với mảng tranh về lễ hội sinh hoạt, như ở bức Chọi trâu, các nghệ nhân đã khắc hoạ hình tượng hai con trâu với sự ước lệ không gian và cường điệu hình tượng, tạo sự dũng mãnh trong sự vương sức thế mạnh. Hình thức bố cục vững chãi, tạo sự đối xứng, cân đối có tính hoàn chỉnh; sự kết hợp các gam màu đơn giản, với màu đen làm chủ đạo, phối hợp cùng màu lục tạo sự đồng điệu. Tính minh triết trong bức tranh ngoài việc khái quát hoá hình ảnh lá cờ ngũ sắc, còn là ý đồ của nghệ nhân khi nhấn mạnh vòng xoáy trên thân của hai con trâu: chín vòng xoắn chính là độ số của hình kinh trên Hà Đồ (Độ số 4 và 9)[7.56]. Như vậy, ngoài thể hiện cái đẹp hình thức, các nghệ nhân còn chú ý đến cả tính minh triết trùng khớp trong Hà Đồ.

Đời sống tự nhiên và cộng đồng thôn xã Việt Nam cũng tạo điều kiện cho người nông dân có các hình thức tiếp cận tính triết lí về con người và vũ trụ, “văn hoá nghệ thuật là sản phẩm trí tuệ của con người được nảy sinh trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử con người”[10.31].

2.2. Quan niệm triết lí trong tranh dân gian Đông Hồ.

Tranh dân gian mang giá trị biểu trưng giàu tính triết lý cùng lối tư duy đầy tính triết học của người phương đông. Ngoài thể hiện tính lịch sử chúc tụng, tranh Đông Hồ còn có nội dung phê phán thói hư tật xấu của con người và phản ánh một cuộc sống tinh thần mới.    

Triết lí được khắc họa trong tranh không phải là một thứ triết học thuần túy, mà là quan niệm về cuộc sống nhân sinh, có bức tranh được rút ra từ triết học phương đông, từ thuyết ngũ hành hay triết lí âm dương của vũ trụ. Triết lí trong tranh Đông Hồ phản ánh tư duy nghệ thuật sắc bén, thể hiện qua cấu tứ, màu sắc và cách tạo nên tính tâm linh huyền diệu trong tranh. Một số bức tiêu biểu như tranh thờ Ngũ hổ, Đàn lợn, đàn cá, Trê và cóc, Tam dương khai thái, Chọi trâu, Đại cát, lễ trí nhân nghĩa, vinh hoa, phú quý, tứ quý, chăn trâu, nhất tượng phước lộc điền,… mỗi bức đều mang giá trị riêng về mặt tư tưởng và tính nhân văn của người Việt. Tranh thờ Ngũ Hổ tiêu biểu cho tính minh triết của dòng tranh gian gian Đông Hồ “Ngũ Hổ có xuất xứ từ một nền minh triết nến tảng là học thuyết của vũ trụ quan cổ là học thuyết của âm dương ngũ hành”[7.21]. Dân gian ta quan niệm, hổ là loài vật hung dữ, là chúa tể sơn lâm, nhưng ở đây hình tượng hổ mang một ý nghĩa khác, “là một biểu tượng được lựa chọn để thể hiện sự vận động của ngũ hành”[7.21]. Như vậy, các nghệ nhân đã phối hợp họa tiết, hình tượng, màu sắc, tạo cho bức tranh một hệ thống khép kín hình chữ nhật, xung quanh là năm chú hổ với năm màu khác nhau: màu đỏ tượng trưng cho hành hỏa, màu trắng-hành kim, màu xanh-hành mộc, màu đen-hành thủy và chú hổ màu vàng (hành thổ) lớn nhất nằm ở chính giữa bởi, “theo thuyết âm dương ngũ hành, hành thổ là sự quy tang của bốn hành còn lại trong chu kỳ vận động của ngũ hành “[7.21]. Sự tổng hòa các mối quan hệ màu sắc trong bức tranh này thể hiện sự hội tụ vũ trụ, đồng thời vừa biểu hiện những giá trị tư tưởng triết lí và tính thẩm mỹ dân gian.

Nằm trong mạch triết lí đó của tranh dân gian Đông Hồ bức tranh đàn lợn cũng mang ý nghĩa triết lí khác, các nghệ nhân đã khai thác từng chi tiết mang tính biểu tượng sinh động “bức tranh như một lời chúc lành cho một năm mới tốt đẹp” [4.37];  ngoài ra bức tranh đàn lợn mang một ý nghĩa ý vị bằng sự khắc chạm hình tượng vòng tròn âm dương trên cơ thể hình tượng của con lợn mang một giá trị triết lý một tố chất giàu tính phương đông, sự khắc chạm đó biểu trưng cho một ý nghĩa sinh động trên tinh thần cầu mong cho những ngày xuân vui tươi an lành ước muốn mang lại cho cuộc sống sinh sôi nảy nở cháu con tràn đầy, hình tượng chú lợn mẹ gợi lên cho người ta một sự liên tưởng tốt về sự sung mảng và tràn đầy sức sống, xung quanh hình tượng chú lợn mẹ vây quanh chú lợn mẹ, các chú lợn con vui đùa ủn ỉn tạo ra một không khí vui tươi. Giá trị tiểu biểu trong tất cả hình tượng chú lợn sự khái quát với hình chữ nhật và quy tụ tổng thể bức tranh cũng là cấu trúc hình chữ nhật, và chính điều đó sự quan hệ với vòng xoáy âm dương tạo ra một sự vuông tròn hòa quyện vào nhau như đất trời vạn vật, mẹ con đang quyện hòa thành một thể thống nhất, tình yêu thương mẫu tử như đang gắn chặt nhau. Không phải điều ngẫu nhiên các nghệ nhân chỉ đưa các hình tượng âm dương vào trong tranh để trang trí  cho bức tranh mà chính điều đó mang một tinh thần triết lí có tính  bí ẩn và “liên quan đến học thuyết ngũ hành”. Màu sắc trên tranh tạo ra sự hài hòa theo sự tương phản các cặp màu xanh lục (mộc) đặt cạnh màu đỏ (hỏa) vàng (thổ) đặt cạnh xanh lục (mộc)… chính yếu tố đó tạo ra sự va đập màu sắc tươi sáng rực rỡ, những đường nét to khỏe chất phác tạo nên tố chất chân chất của người nông dân Việt Nam .

  Tranh Thầy đồ cóc là một tác phẩm tiêu biểu điển hình mang một giá trị đặc trưng trong các bức tranh dân gian Đông Hồ. Bởi nó phản phất tinh thần văn hóa dân tộc có từ ngàn đời. Trong dân gian, con cóc là hình tượng thiên liêng mang tính tâm linh của người Việt Nam, bởi “con cóc là cậu ông trời”, hình tượng ấy cứ đi vào dân gian từ đời này sang đời khác. Các hình tượng trong bức tranh là sự tổng thể các loại cóc nhái to nhỏ lớn bé khác nhau, hình tượng chú cóc lớn (ông thầy đồ) đang ngồi chễm chệ trên bàn và kiểm tra bài học trò của mình, còn các chú cóc, nhái xung quanh thay nhau làm những công việc nhà, chính những công việc đó phản phất nên tình cảm, một lối giáo dục mang tính phong kiến của nếp giáo dục Việt Nam. Qua bức tranh đó nói lên một cái nhìn châm biếm và có tính phê phán của ông cha ta về một lối giáo dục mà tồn tại hằng ngàn năm. Nằm trong những bức tranh mang tố chất đặc trưng và biểu hiện giá trị triết lý nổi bật nhất là bộ tranh lễ trí, nhân nghĩa, vinh hoa phú quý, bốn bức tranh thể hiện bốn nội dung khác nhau với những cầu chúc, khác vọng sự bụ bẫm cho những đứa bé, thể hiện sự phú túc và ngay thơ thiên thần, ý nghĩa sâu xa cho những bức tranh này “nhận thấy một tư duy tiếp nối là hệ quả của thuyết vũ trụ quan cổ. Đó là thuyết ngủ hành âm dương “[7.71] bốn bức tranh tượng trưng cho bốn mùa là, tứ trụ, tứ bình, tứ bảo, tứ bất tử, v.v., tượng trưng cho bốn mùa khác nhau trong năm. Hơn nữa bốn bức tranh bốn hình tượng chú bé bầu tròn và ôm những con vật có tính ước lệ tượng trưng dùng để biểu thị một ý nghĩa triết lý cho bức tranh như bức nhân nghĩa hình tượng chú bé ôm cóc là con vật khó có thể gần gũi với đời sống của người dân những với tư duy triết lí của người nông dân họ đã biến hình tượng mang tính biểu trưng ước lệ trọng tâm thức người dân, hình tượng quen thuộc. Hay trong bức tranh lễ trí hình tượng chú bé ôm rùa là một con vật có tính linh thiêng mang một giá trị văn hóa cội nguồn từ thời xa xưa, qua đó nói lên một ý nghĩa biểu trưng về văn hóa có tính văn hiến của dân tộc.  

2.3. Quan niệm triết lí biểu trưng trong tranh Hàng Trống.

Tính triết lí trong tranh dân gian Hàng Trống: Sự hình thành và phát triển của tranh dân gian Hàng Trống phản ảnh tư duy sáng tạo đặc biệt của cộng đồng, tầng lớp đặc trưng của xã hội Việt Nam trong giai đoạn thế kỉ XVIII.Sự tinh xảo trong kĩ thuật và chế tác tranh mang tính trí tuệ phản ảnh tư duy thành thị của người dân qua những tác phẩm. Cộng đồng xã hội tạo nên những nét thẫm mĩ có giá trị . “Nó có ý nghĩa vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá của cộng đồng,nhu cầu không thể thiếu vắng trong xã hội nó góp phần hình thành nhân cách con người, thúc đẩy hăng say lao động, sáng tạo văn hoá, phát triển tư duy con người, sáng tạo ra những sản phẩm mang tính văn hoá thể hiện tài năng, trí tuệ, tri thức hiểu biết, thông minh tài hoa của nhân dân”.[10.23-24]. Tranh Hàng Trống cũng không nằm ngoài quy luật đó, đem lại những giá trị bất hủ, thể hiện minh triết tiêu biểu thông qua những bức tranh Lưỡng nghi sinh tứ tượng “qua bức tranh mà tự nó đã khẳng định tính minh triết trong cách xây dựng hình tượng và cách bố cục và kí hiệu trên bức tranh. Trên tay hình tượng đứa bé cầm thái cực đồ biểu tượng cho thái cực sinh lưỡng nghi lưỡng nghi sinh tứ tượng tứ tượng sinh bát quái”. Hơn nửa hình tượng hai chú bé có bốn thân hình biểu tượng của “tứ tượng”, bốn đứa bé kết cấu bố cục lại tạo thành hình vuông biểu tượng cho “Âm’. Bức tranh lại khắc hoạ hình tượng con rùa tượng trưng cho nền văn hoá có chữ viết của Lạc Việt, sự kết cấu sắp xếp hình tượng chú bé đứng trên lưng rùa là một dấu hiệu tượng trưng sắc sảo có ý đồ về nguồn gốc và dòng giống Lạc Việt.

  Tính tâm linh làm nên một tư duy của tranh Hàng Trống trong đó tính tư tưởng trong từng bức tranh biểu hiện một giá trị riêng biệt mang nhiều yếu tố tạo hình. Sự đan xen giữa xử lý hình tượng và bố cục màu sắc và tính linh hoạt trong họa tiết của tranh là cho bức tranh lại có một sức sống mạng mẽ với thời gian; mặc dù hiện nay, tranh Hàng Trống không còn nữa nhưng vẫn còn đó có những giá trị tiêu biểu điển hình của một thời in dấu ấn qua bao nhiên thế hệ.

Những giá trị và tính tư tưởng trong tranh dân gian Hàng Trống tác động đến thế hệ hôm nay những giá trị về nhận thức cái đẹp của cha ông ta. Thông qua đó, chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn trong việc định hướng và giáo dục đào tạo giáo viên mỹ thuật, liệu những giá trị trong kho báu của dân tộc có nên chăng nghiên cứu có hệ thống và đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường một cách bài bảng. Từ đó định hướng thẩm mỹ cho thế hệ trẻ hiện nay của chúng ta

Kết luận.

Nhìn nhận một cách tổng quát về giá trị điển hình của nghệ thuật trong tranh dân gian tồn tại nhiều tầng thức thẩm mỹ, chứa đựng những tinh hoa và vốn quý của dân tộc, đã được sàn lọc qua bao nhiêu thời gian, cho nên đã tạo nên những giá trị riêng biệt không lẫn với bất cứ với dòng tranh nào trên thế giới.

Giáo dục nghệ thuật của chúng ta ngày nay có xu hướng hướng ngoại hơn là hướng nội, chú trọng nghiên cứu những giá trị tiêu biểu của nhân loại làm nền tảng đưa vào giảng dạy trong nhà trường đặc biệt trong chương trình đào tạo giáo viên mỹ thuật cho các trường phổ thông, những môn học (học phần) như Hình họa, Trang trí, Bố cục, Ký họa và những môn thường thức mỹ thuật… chỉ giải quyết về vấn đề đào tạo kỹ năng thực hành vốn kiến thức cơ bản của chuyên ngành mình nghiên cứu. Để thẩm thấu, mở mang tri thức và cảm nhận sâu về giá trị thẫm mỹ nhằm khơi hứng sáng tạo trong dạy và học của thầy trong các trường phổ thông cần phải nghiên cứu sâu những mảng kiến thức liên quan về nghệ thuật dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật dân gian. Chính sự quay trở về nghiên cứu những thành tựu cha ông cho nên chúng ta có cơ hội sâu hơn và tiếp xúc với các hệ thống kiến thức của các môn liên ngành làm cơ sở lí luận trong nhận định và đánh giá thẩm mỹ trong học sinh phổ thông. Những phân tích chuyên sâu về lượng kiến thức và những giá trị nghệ thuật dân gian của tranh dân gian Việt Nam trên nhằm làm rõ những giá trị và nét điển hình có tính minh triết của tư duy sắc bén của nghệ thuật dân gian của cha ông chúng ta, là nền tảng cho mỗi chúng ta tiến sâu hơn kho tàng mỹ thuật của dân tộc, làm hành trang trong giáo dục và đào tạo nghệ thuật hôm nay./.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Trần Lâm Bền (1993) Hình tượng von người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống,NXB Mỹ Thuật,

[2] Nguyễn Quân (2005) Con mắt nhìn cái đẹp, NXB Mỹ Thuật.

[3] Nguyễn Quân - Phan Cẩm Thượng (1991) Mỹ thuật ở làng, NXB Mỹ Thuật Hà Nội,

[4] Nguyễn Bá Vân - Chu Quang Trứ (1984) Tranh dân  gian Việt Nam, NXB Văn Hóa,

[5] Hoài Lam (1991), Biện chứng về đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật, NXB Trẻ,

[6] Viện nghệ thuật - Bộ văn hóa (1976) Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, NXB Văn Hóa,

[7] Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2002), Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, NXB VHTT, 2002

[8] Nguyễn Đình Như (2002) Tìm hiểu  và ứng dụng học thuyết ngũ hành. NXB Văn Hóa Dân Tộc,

[9] Vương Hoàng Lực (2007) Nguyên lí hội họa trắng đen, NXB Mỹ Thuật,

[10] Lê Ngọc Canh (1999) Văn hóa dân gian Việt Nam – Những Thành Tố, NXB VHTT,

[11] Nguyễn Quân - Phan Cẩm Thượng (1989) Mỹ thuật của người việt, NXB Mỹ Thuật Hà Nội.