- Tập liên ca khúc “Cô thợ xay xinh đẹp” gồm 20 ca khúc op.25 (1823).
- “Con đường mùa đông” gồm 24 ca khúc op.89, trên lời của Wilhelm Muler (Wilhelm Mỹller). (1827).
- “Bài ca chim thiên nga” gồm 14 bài phổ thơ của Hainơ (Heinrich Heine), Renxtap, Giâyđơli.
- Khoảng 70 ca khúc phổ thơ Goethe.
- Khoảng 50 ca khúc phổ thơ Schiller.
Một trong những đặc điểm nổi bật ở lĩnh vực sáng tác thanh nhạc của F.Schubert là sự không ngừng mở rộng giới hạn biểu hiện của ca khúc. Các ca khúc trong sự kiến giải của ông bao giờ cũng là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật thanh nhạc và nghệ thuật khí nhạc. Ở Schubert phần đệm piano có một vai trò đặc biệt quan trọng/là thành tố không thể thiếu được khi thể hiện ca khúc: là nền âm thanh mang ý nghĩa to lớn trong việc tạo xúc cảm – tâm lý cho sự tiến hành của giai điệu thanh nhạc. Cách làm này của ông có mối liên hệ với không chỉ nghệ thuật diễn tấu piano, mà với cả nghệ thuật sáng tạo giao hưởng và nhạc kịch của các nhạc sĩ thuộc Trường phái âm nhạc cổ điển Viên. Nói một cách khác, phần đệm piano trong các ca khúc của Schubert có ý nghĩa tương tự như phần đệm của dàn nhạc giao hưởng trong âm nhạc ca kịch của Gluck, Mozart, Haydn và Beethoven.
Khả năng biểu hiện phong phú của phần đệm trong các ca khúc của Schubert luôn chiếm được chú ý cũng sự như đánh giá cao của giới những người làm công tác âm nhạc chuyên nghiệp nói chung, giới những người biểu diễn piano trên thế giới nói riêng. Chúng ta cũng cần nhớ rằng, trong lịch sử âm nhạc thế giới, thế kỷ XVIII và XIX là giai đoạn nghệ thuật piano (trên cả ở 2 lĩnh vực sáng tác và biểu diễn) có những bước tiến dài, khẳng định vị trí nổi bật về khả năng biểu hiện ngôn ngữ âm nhạc với nhiều nghệ sĩ lớn trong lịch sử âm nhạc thế giới như F. Chopin, R. Schumann, F. List .v.v…
Trước khi giai điệu của các ca khúc vang lên, phần dạo đầu của Schubert bao giờ cũng tạo dựng/chuẩn bị một không gian cảm xúc cho người nghe. Và tương tự như vậy, những âm điệu kết bài của phần piano cũng mang ý nghĩa hoàn thiện ý tưởng âm nhạc của một ca khúc. Trong bài “Margarita bên guồng sợi”, hai ô nhịp mở đầu tạo dựng một trạng thái buồn man mác và sự mô phỏng những âm thanh của guồng sợi:
' Margarita bên guồng sợi'
Còn trong bài “Chúa rừng” là một không khí căng thẳng chứa đựng sự đe doạ:
“Chúa rừng”
Còn trong “Xerenata” (còn gọi là Khúc nhạc chiều) thì phần mở đầu lại đưa đến với người nghe những âm thanh quen thuộc của cây đàn ghita:
“Xerenata”
Một đặc điểm cần chú ý trong toàn bộ các sáng tạo âm nhạc của ông là tính ca xướng/ca khúc ngay cả ở các tác phẩm khí nhạc. Trong khoảng thời gian 15 năm (từ 1813 đến 1828) Schubert đã sáng tác tất cả 9 bản giao hưởng. Trong số đó, Bản giao hưởng số 1 giọng Rê trưởng (1813), Bản giao hưởng số 4 “Bi thương” giọng đô thứ (1816), Bản giao hưởng số 7 (còn chưa viết xong) (1821), Bản giao hưởng số 8 giọng xi thứ “Chưa hoàn thành” (1822).
Nếu như 7 bản giao hưởng đầu tiên của Frank Peter Schubert còn chịu nhiều ảnh hưởng phong cách sáng tạo của các nhạc sĩ thuộc Trường phái âm nhạc Cổ điển Viên, thì Bản giao hưởng số 8 “Chưa hoàn thành” (Unfinished) lại là dấu ấn về sự hình thành một chủ nghĩa mới trong sáng tạo nghệ thuật âm nhạc: chủ nghĩa lãng mạn. Kế thừa những giá trị cơ bản của giao hưởng Beethoven: sự nghiêm khắc, tính kịch và sự sâu sắc của thế giới cảm xúc, lần đầu tiên tính trữ tình – ca xướng đầy chất lãng mạn trở thành cương lĩnh của một tác phẩm âm nhạc giao hưởng. Những hình tượng nghệ thuật trữ tình mới được biểu hiện không phải bằng ngôn ngữ âm nhạc, hình thức âm nhạc truyền thống. Ngay tên gọi Bản giao hưởng “chưa hoàn thành” sinh ra bởi cấu trúc tác phẩm chỉ gồm 2 chương, trong khi theo khuôn mẫu truyền thống thì một Bản giao thường thường gồm từ 3 đến 4 chương. Song dưới góc nhìn logic của kiến giải một hình tượng nghệ thuật: Bản giao hưởng “Chưa hoàn thành” lại thực sự là một tác phẩm hoàn chỉnh về phương diện tư duy nghệ thuật âm nhạc.
Ngay từ những âm thanh đầu tiên của Chương I, người nghe đã đắm chìm trong không gian của những cảm xúc lãng mạn. Đó là những âm thanh do 2 bè violon và cello đi đồng âm ở âm khu thấp:
Rồi trên nền âm thanh rực rỡ như phần mở đầu của các ca khúc trữ tình là sự xuất hiện của chủ đề chính của chương nhạc:
Sau chủ đề chính là sự xuất hiện của chủ đề phụ qua diễn tấu của bè violoncelle. Chủ đề này có mối liên hệ với những bài hát sinh hoạt của thành phố Vienna qua nhiều chi tiết: giai điệu được vang lên trên một âm hình của phần đệm có sự đảo phách và sự đối xứng về cấu trúc theo sơ đồ ABBA.
Chương II Andante con moto thực sự là những suy tư đầy chất thơ. Âm nhạc trong sáng, nhiều chỗ mang sắc thái anh hùng ca. Chương II dường như sinh ra để cân bằng với không khí lo âu và nỗi buồn của chương I. Chương Andante con moto được viết ở hình thức Sonate không có phần phát triển với 2 chủ đề (chủ đề chính và chủ đề phụ). Chủ đề chính ở đây mang tính chất du dương được trình bày trong một cấu trúc 3 phần có phần kết.
Chủ đề phụ gần gũi với chủ đề chính về phương diện âm điệu:
Bản giao hưởng “Chưa hoàn thành” của F. Schubert là một trong những tác phẩm kinh điển của kho tàng âm nhạc thế giới.
Các sáng tác giai đoạn cuối đời của Schubert thể hiện rất rõ mối quan hệ với những khó khăn, những bóng tối luôn bao quanh cuộc đời người nghệ sĩ. Trong nhiều tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn này chúng ta thường thấy vang lên những chủ đề âm nhạc đầy sức mạnh cháy bỏng và đậm chất bi thương: Tứ tấu giọng rê thứ (1824-1826), Liên khúc “Con đường mùa đông” (1827) và nhiều ca khúc phổ thơ của Hainơ.
Vào cuối đời, năm 1827, các sáng tác của F. Schubert nhận được sự đánh giá cao của L.V. Beethoven. Beethoven cũng bày tỏ mong muốn được nghe các tác phẩm khác của Schubert. Nhưng khi Schubert mạnh dạn đến gặp người nhạc sĩ vĩ đại thì ông đã qua đời.
Là người nhạc sĩ sống cùng thời với L.V. Beethoven tại Vienna, nhưng sứ mệnh lịch sử của F. Schubert và L.V. Beethoven lại khác nhau. Nếu như L.V. Beethoven là người nhạc sĩ cuối cùng/người hoàn thiện Chủ nghĩa âm nhạc Cổ điển Viên, thì F. Schubert lại là nhà soạn nhạc đầu tiên/người mở đầu của Trường phái âm nhạc lãng mạn Tây Âu. Khi L.V. Beethoven sáng tác Bản giao hưởng số 9 giọng Rê - thứ (d-moll) (1822-1824) bất hủ cho di sản nghệ thuật âm nhạc thế giới, thì F. Schubert tìm đến với thể loại ca khúc/với những liên khúc 'Cô thợ xay xinh đẹp' (1823) và 'Con đường mùa đông' (1827).
Bên cạnh sự kiện trên, khi nói về những ngày cuối cuộc đời của F. Schubert người ta cũng thường nhắc đến một sự kiện khác nữa. Đó là Đêm tác giả lần đầu tiên được tổ chức rất thành công của F. Schubert vào tháng 3 năm 1828 tại Vienna. Từ sau đêm nhạc đó, tên tuổi của Schubert được cả thành Vienna nói đến như một trong những sự kiện lớn nhất của Thủ đô âm nhạc này. Nhưng như một định mệnh, cũng chỉ sau đó ít tháng, người nhạc sĩ vĩ đại của lịch sử âm nhạc thế giới Frank Peter Schubert đã qua đời tại Vienna vào ngày 19 tháng 11 năm 1828.
Mộ phần của F. Schubert tại Zentralfriedhof (Zentralfriedhof), Vienna.
NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH CỦA F. SCHUBERT
I. Ca khúc (hơn 600):
1. Liên khúc 'Cô thợ xay xinh đẹp' gồm 20 ca khúc, op. 25 (1823).
2. Liên khúc 'Con đường mùa đông' gồm 24 ca khúc trên lời thơ của Muller, op. 89 (1827).
3. Liên khúc “Bài ca chim thiên nga” gồm 14 bài phổ thơ của Hainơ (Heinrich Heine), Renxtap, Giâyđơli.
4. Khoảng 70 ca khúc phổ thơ Goethe.
5. Khoảng 50 ca khúc phổ thơ Schiller.
II. Các bản giao hưởng:
1. Bản giao hưởng số 1 giọng Rê trưởng (D-dur) năm 1813.
2. Bản giao hưởng số 2 giọng Xi giáng trưởng (B-dur) năm 1815.
3. Bản giao hưởng số 3 giọng Rê trưởng (D-dur) năm 1815.
4. Bản giao hưởng số 4 'Bi thương' giọng đô thứ (c-moll) năm 1816.
5. Bản giao hưởng số 5 giọng Xi giáng trưởng (B-dur) năm 1816.
6. Bản giao hưởng số 6 giọng Đô trưởng (C-dur) năm 1816.
7. Bản giao hưởng số 7 giọng Mi trưởng (E-dur) năm 1821.
8. Bản giao hưởng số 8 'Chưa hoàn thành' (Unfinished) giọng Rê trưởng (D-dur) năm 1822.
9. Bản giao hưởng số 9 giọng Đô trưởng (C-dur) năm 1828.
III. Các thể loại khác:
1. Tứ tấu thính phòng (tất cả có 22 tác phẩm). Trong số đó:
- Tứ tấu giọng Xi giáng trưởng (B-dur) op. 168 sáng tác năm 1814;
- Tứ tấu giọng sol thứ (g-moll) sáng tác năm 1815;
- Tứ tấu giọng la thứ (a-moll) op. 29 sáng tác năm 1824;
- Tứ tấu giọng rê thứ (d-moll) sáng tác từ năm 1824 đến 1826;
- Tứ tấu giọng Sol trưởng (G-dur) sáng tác năm 1826.
2. Hoà tấu thính phòng (có hơn 40 tác phẩm). Trong số đó:
- Ngũ tấu 'Con cá măng' op. 114 sáng tác năm 1819;
- Ngũ tấu dây giọng Đô trưởng (C-dur) op. 163 sáng tác năm 1828;
- Tam tấu piano giọng Xi giáng trưởng (B-dur) op. 99 sáng tác năm 1827;
- Fantasie cho violon và piano giọng Đô trưởng (C-dur) op. 159 sáng tác năm 1827.
3. Sonata piano (tất cả có 22 tác phẩm). Trong số đó có:
- Sonata giọng La trưởng (A-dur) op. 120 sáng tác năm 1819.
- Sonata giọng La thứ (a-moll) op. 143 sáng tác năm 1823.
- Sonata giọng La thứ (a-moll) op. 42 sáng tác năm 1825.
- Sonata giọng Sol trưởng (G-dur) op. 78 sáng tác năm 1826.
4. Âm nhạc cho hợp xướng và hợp ca (tất cả có hơn 100 tác phẩm). Trong đó có:
- Messa La giáng trưởng (As-dur) sáng tác năm 1822.
- Messa Mi giáng trưởng (Es-Dur) sáng tác năm 1828.
5. Âm nhạc cho sân khấu (18 tác phẩm).