1. Sơ lược nguồn gốc và tộc danh Tày
Theo số liệu công bố năm 1999, tổng số dân Tày là 1.447.514 người, đứng vị trí thứ hai sau người Kinh, sống tập trung ở vùng Việt Bắc, chủ yếu tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.
Về nguồn gốc, Tày (và Nùng) thuộc khối cư dân Bắc Việt cư trú lâu đời trên khu vực nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Quá trình cùng chung sống lâu dài đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hoá Việt trở thành người Tày (Việt Nam) và văn hoá Hán thành người Choang Đồng (Trung Quốc). Ở Quảng Tây hiện nay vẫn tồn tại các nhóm Choang Đồng với các tên: Pò Choang, Pò Đề Di, Pò Nồng, Pò Tày[3].
Tộc danh Tày bắt nguồn từ cách nêu đặc điểm của nhóm người chuyên nghề cày ruộng, làm lúa nước, nông cụ tiêu biểu là chiếc cày. Trong tiếng Tày- Thái cổ cày gọi là Mạc Thay hay Thây rồi biến âm thành Tày và Thái[2, tr.46], bằng dụng ý rõ ràng hơn khi người Tày được gọi là Cần Nà- Người cày ruộng. Người Tày nói chung đều tự nhận là Cần Tày, tuỳ theo từng nơi có tên Tày bốc- Tày cạn sống vùng núi và Tày nặm- Tày nước làm bản dựng nhà dưới thung lũng nhiều sông suối. Từ thế kỷ XV để phân biệt với Thổ quan từ dưới xuôi lên cai trị, người Tày còn có tên là Thổ với hàm nghĩa thổ địa ám chỉ nhóm người đã sinh sống lâu đời nơi đây.
Như vậy người Tày cổ (Âu Việt) đã dung hợp với nhóm Việt Mường cổ (Lạc Việt) ngay từ buổi đầu dựng nước, góp phần quan trọng hình thành nên dân tộc Việt Nam.
2. Văn hoá tín ngưỡng dân gian Tày
Sơ đồ chỉ hướng:
Trong tam giáo, ảnh hưởng của đạo giáo nổi trội hơn, đạo giáo còn gọi là Lão giáo do Lão Tử sáng lập trước công nguyên hàng trăm năm, tuy vậy về sau chỉ có đạo giáo của Trương Đạo Lăng[2] phổ biến trong tín ngưỡng dân gian Tày, tính chất mang nhiều yếu tố shaman như: tu tiên, luyện đan, đồng cốt, ma thuật phù thuỷ, chiêm tinh, bói toán.
Như vậy, tín ngưỡng người Tày bắt nguồn từ thủa xa xưa, khởi sinh từ ý thức bảo vệ cộng đồng thị tộc, đây là lớp tảng nền sơ khai thứ nhất. Trải qua thời gian, tín ngưỡng bản địa Tày chịu sự tác động của người Việt khi hai tộc người Âu Việt và Lạc Việt cùng nhau liên thủ, đây là lớp văn hoá thứ hai, tuy vậy do tương đồng nên giữa Âu Việt và Lạc Việt luôn có sự gắn bó chặt chẽ. Sự xuất hiện tam giáo du nhập vào là lớp thứ ba đã biến đổi tín ngưỡng Tày sang dạng thức như ngày nay.
GS.TS Ngô Đức Thịnh nhận xét:…kết quả của sự hỗn dung, pha tạp giữa tín ngưỡng bản địa và tam giáo (Phật- Đạo- Nho) đã hình thành và tồn tại một số tín ngưỡng đặc thù: Then, Tạo, Pụt, Mo với tư cách là thày cúng Then, Tào, Pụt, Mo tham gia vào hầu hết các nghi lễ của tín ngưỡng người Tày, Nùng, từ thờ cúng tổ tiên trong gia đình tới các hình thức thờ thổ thần, thành hoàng của cộng đồng [6, tr.5].
3. Hiện tượng shaman trong Then Tày
Bản chất Then là gì? Nguồn gốc như thế nào? Những biểu hiện của then trong tín ngưỡng người Tày ra sao? Trong nội dung này sẽ xem xét và giải mã hiện tượng Then.
Có một số giả thuyết quá trình xuất hiện Then trong đời sống tâm linh của người Tày, dựa trên tư liệu dân gian, truyền thuyết từ nhiều vùng khác nhau, đặc biệt là của các tác giả ở Cao Bằng như Hoa Cương, Dương Sách, Triều Ân đều cho rằng Then chính thức ra đời khi nhà Mạc bị thất sủng chạy trốn lên Cao Bằng cát cứ (thế kỷ XVI, XVII)[9]. Đây là sự kiện lịch sử có thật, phản ánh giai đoạn văn hoá Việt- Tày đan cài tại Cao Bằng, để lại đến ngày nay trong Then nhiều trường đoạn hát bằng tiếng Kinh.
Hoàng Tuấn cho rằng: đại bộ phận các ông bà then cắt nghĩa then là tiên, là môn tiên, là trời [8,tr.88], cách giải nghĩa mở rộng hơn dưới góc độ dân tộc học với quan niệm Then là một từ cổ trong vốn từ ngữ Tày- Thái, gốc ban đầu có chung một nghĩa[8]. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] và PGS Vũ Ngọc Khánh[3] cùng chung quan niệm: Then có nghĩa là tiên, cũng như Pụt nghĩa là phật.
Như vậy, Then được hiểu là người cõi trời, giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời, nhưng cách giải thích trên chưa tầm nguyên đầy đủ về Then. TS Nguyễn Thị Yên[10] tìm cách giải mã lớp tiền tố Then, và nêu rõ các hình thức nhập đồng tồn đọng yếu tố shaman giáo trong các trò chơi của trẻ em, chủ yếu là những nàng tiên/ linh hồn như: nàng Trứng, nàng Cám, nàng Sọt, nàng Hương mang đậm tín ngưỡng bản địa nguyên thuỷ. Đây là tín ngưỡng sliên (tiên)- yếu tố tiền then, chữ sliên- tiên vay mượn từ chữ Hán, về sau dùng để chỉ hình thức cúng bái bản địa liên quan đến sự nhập đồng của then nữ.
Để trở thành ông Then hay bà Then, người Tày cho rằng do căn số, ma then nhập vào. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] nêu hai trường hợp trở thành Then: a) có căn then (mỉng bang) và b) gia đình, dòng dõi có người làm Then (tẩn then). Trong cuộc đời làm Then, ông Then hay bà Then trải qua nhiều lần thăng cấp (tâng) qua lễ lẩu Then, cấp Then biểu hiện ở số lượng dải mũ, tương đương với số quân mà Then cai quản. Như vậy Then là người đặc biệt trong cộng đồng Tày, có khả năng thông quan với thần linh, khi Then thăng cũng có nghĩa Then đã tiếp cận với thế giới siêu nhiên, đồng thời nhập vào mọi đối tượng phi để bắc cầu giao tiếp với người trần gian. Về hình thức và nội dung Then giống như hầu đồng của người Việt, GS.TS Võ Quang Trọng nhận xét: 'hầu đồng của người Việt và then của người Tày là hiện tượng con người tự thôi miên để đưa mình vào trạng thái ảo giác đặc biệt'[7, tr.44].
Trong nhiều công trình, các nhà nghiên cứu tín ngưỡng tộc người đều nhắc đến shaman như một dạng ảo giác đặc biệt và trạng thái ngây ngất- estasy. Đối với Then: shaman là hiện tượng biến hoá tư duy, tinh thần con người từ trạng thái này sang trạng thái khác theo cách hiểu xuất thần nhập thần, vậy shaman là gì?
Thuật ngữ shaman- thày pháp xuất hiện lần đầu tiên trong một số tài liệu ở Nga vào thế kỷ XVII, nguồn gốc từ tiếng Evenk (saman) của bộ lạc Tungus chuyên sống bằng nghề chăn nuôi tuần lộc ở Xibiri, biến đổi từ chữ samana- tiếng Pali (hệ tiếng sancrit) được các nhà Phương Đông học chấp nhận vào thế kỷ XIX[11]. Gần một thế kỷ sau, thuật ngữ shaman giáo- shamanism trở nên thông dụng, xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu Âu, Mỹ. Ở Trung Quốc, hiện tượng shaman có nhiều tên gọi, tên chung là Vu thuật, người hành nghề shaman là Vu sư. Tuy vậy tùy từng nơi gọi là thỉnh thần phụ thể, thần linh phụ thể, quỷ thần phụ thể, nhưng dịch sang tiếng Việt nhiều nhất là từ giáng thần phụ thể, nghĩa là cầu thần nhập xác. Tại Đông Nam Á, shaman là hình thức tôn giáo sơ khai tự thân hình thành trong các cuộc hành lễ hiến sinh nguyên thuỷ, được cộng đồng đón nhận như một dạng người đặc biệt, có khả năng phi thường, có bí quyết và sức mạnh ma thuật.
Tuy vậy, thời điểm xuất hiện shaman còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo trường phái lịch sử[12] shaman ra đời vào giai đoạn phân rã công xã thị tộc nguyên thuỷ kèm theo sự phân công địa vị một số người. Trường phái dân tộc học Trung Quốc cho rằng shaman tồn tại thời trung kỳ xã hội thị tộc mẫu hệ, lúc này vai trò người phụ nữ có quyền năng rất lớn. Với trường phái sinh học phát triển, shaman là hiện tượng của người mắc bệnh cuồng itteri, một loại bệnh thần kinh, nói cách khác tất cả các thày shaman đều biểu hiện bệnh thần kinh dạng phân tâm học được Freud phát hiện đầu thế kỷ XX. Khi hành nghề, các thầy shaman (cả nam lẫn nữ) bị kích động toàn thân, thực hiện những hành động đặc biệt lúc bình thường ít người làm được như: đi trên than nóng, đoán định tương lai, thần nhập, nói bằng ngôn ngữ chưa bao giờ học, hát múa suốt ngày…thực tế shaman là hiện tượng tồn tại trong hầu hết tất cả các tộc người trên thế giới.
GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nêu bản chất shanman là tạo nên yếu tố thiêng phát xuất khi tiến hành nghi lễ (trong then Tày và hầu đồng Việt), từ đó lan toả khắp xung quanh, khiến mọi đối tượng tham gia đều chịu ảnh hưởng. Điều kiện để thiêng hình thành là âm nhạc, múa, do đó Then không thể thiếu hai loại hình nghệ thuật này cùng tham gia. TS Nguyễn Thị Hiền[1] khi tiến hành khảo sát thực tế nghề làm Then tại một số địa bàn người Tày cho biết hầu hết sau lễ cúng, các ông Then, bà Then đều không nhớ lại được hành động, ngôn ngữ khi rơi vào trạng thái xuất thần lúc hành lễ.
4. Các thành tố diễn xướng trong nghệ thuật Then
Phương tiện hành nghề Then gồm:
- Quả trứng, chim én: là vật thiêng đóng vai trò dẫn hồn Then.
- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng cấp để Then vào các cửa thần linh.
- Quạt phép (quạt trời): giúp Then tạo nhiều động tác biến hoá như bay bổng trên mây, xuống âm phủ, đi dưới nước.
- Gương dùng trừ tà, soi sáng đường Then đi.
- Đàn Tính: nguồn khải lực để Then thoát hồn, thông quan với các loại thần linh.
- Chùm xóc nhạc- Miạc: lực lượng âm binh để Then sai khiến.
Những đồ vật biểu trưng linh giáo như: trứng, chim én, gương, quạt qua tay Then đầy tính ma thuật dưới dạng phù thuỷ. Nhưng nổi trội và tạo nên giá trị thu hút toàn thể cộng đồng là nghệ thuật Then- nhân lõi cốt yếu xuyên suốt quá trình xuất, nhập thần. Nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất ý kiến: Then Tày là hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể có tính nguyên hợp (syncretic), là hình thức nghi lễ diễn xướng nghệ thuật tổng hợp gồm có hát, nhạc, múa, trang phục [7,tr.44], hoặc then là một nghi lễ tôn giáo được diễn xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, ngoài ra còn có những biểu tượng tôn giáo mang tính tượng trưng và nhiều yếu tố sân khấu dân gian[1,tr.74]. PGS.TS Nguyễn Thuỵ Loan tham chiếu các hệ thống tín ngưỡng tộc người ở Việt Nam đã khái quát:…tín ngưỡng tôn giáo là một trong những môi trường quan trọng cho sự sáng tạo và nảy sinh âm nhạc…[4,tr.65].
Như vậy, diễn xướng nhạc- hát- múa là động cơ bên trong nảy sinh không gian thiêng, giúp Then thăng, hoá, xuất, nhập trên đường (tàng) đi. Nếu như hầu đồng của người Việt là hiện tượng nhập hồn thì hành trạng Then Tày biến đổi theo hướng ngược lại, nghĩa là thoát hồn. X.A Tôcarev cho rằng có hai hình thức giao tiếp với thần linh:…hoặc thần linh nhập vào người thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy pháp chu du lên xứ sở thần linh…[11,tr.330]. Quá trình thoát xác xảy ra lúc Then ngồi bỗng rùng mình mấy cái, tay cầm chùm xóc nhạc rung rung rồi rơi vào trạng thái estasy- ảo giác ngây ngất.
Cùng với đàn tính, chùm xóc nhạc thì hát Then là môi trường để Then múa các động tác khi thoát hồn. Trên toàn bộ 5 tỉnh Việt Bắc mỗi vùng đều sử dụng hệ thống làn điệu riêng:
- Lạng Sơn: Giải hạn, Cáp tơ hồng, Tiển cổm, Pây sử.
- Cao Bằng: Pây Sử, Kỳ Yên, Cái cấu cầu Bjoóc, Hỉn ẻn.
- Bắc Kạn: kẻn Bjoóc, Khảm hải, Kỳ yên, Cái cấu cầu hoa, Hỉn ẻn, Bách điểu.
- Tuyên Quang: Lẩu luông.
- Hà Giang: toàn bộ các làn điệu trong Lẩu Then.
Hệ thống làn điệu này không cố định, phần lớn tuỳ theo ông bà Then sử dụng vào trình tự cuộc lễ, ví dụ như ở Thất Khê- Lạng Sơn ngoài các làn điệu trên còn có: điệu Cống sử dùng trong lễ cúng trẻ em, Tò mạy ở lễ giải hạn, Suôi lừa hát khi Then làm động tác chèo thuyền, Khẩu tu vùa lúc Then đến cung Ngọc Hoàng…ngoài ra còn chia làn điệu làm 2 kiểu:
- Tàng bốc: đi đường trên cạn.
- Tàng nặm: đi đường dưới nước.
Cũng giống như dân ca của nhiều tộc người trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng tác trong hát Then là hiện tượng phổ biến. Mỗi Then đều xây dựng motif- Âm hình giai điệu riêng ngay từ khi bắt đầu bước vào hành nghề, dần dần Then tiếp thu nhiều làn điệu khác nhau mang âm hưởng dân ca nơi Then sống. Điển hình như điệu lượn Then có gốc giai điệu từ lượn cọi- lối hát giao duyên nam nữ tỏ tình.
Cách hát trong Then phần lớn là hát nói (hoặc nói như hát) mang tính tự sự, kể chuyện, mô tả trên nền nhịp điệu không ổn định về tiết tấu. Đây cũng là đặc điểm khu biệt giữa Then Tày và hầu đồng Việt, nguyên do nguồn âm điệu dân ca Tày hiếm gặp cấu trúc giai điệu dí dỏm, nghịch ngợm, tốc độ nhanh, hoạt, rộn rã. Hoàng Tuấn[8] phân định hát Then làm ba dạng dựa theo tính chất biểu hiện của giai điệu:
- Loại cầu khẩn niệm chú.
- Loại giãi bày tâm sự.
- Loại kể lể, mô tả.
Từ phân loại trên cho thấy hát Then mang đặc tính cầu khẩn, giãi bày, kể lể tạo nên kiểu hành lễ trong màu sắc tối. Thời điểm diễn ra nghi lễ Then chủ yếu trong đêm tối, như vậy Then diễn xướng trong một không gian tối, tất cả đều mang lại cảm giác hư hư thực thực, mờ ảo gợi lên vẻ huyền bí, âm u. Nếu vào ban ngày thì Then thoát hồn trong nhà, tại những nơi ít ánh sáng chiếu vào.
Cây đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều huyền thoại, truyền thuyết được thêu dệt, lưu truyền trong dân gian. Tính là âm tượng thanh tính, tình, tang đặt tên cho cây đàn, tẩu nghĩa là quả Bầu chỉ rõ bầu đàn làm từ quả Bầu. Những câu chuyện về sự ra đời đàn Tính lưu truyền khắp mọi nơi trong cộng đồng người Tày như: Pụt Luông- Bụt lớn sai con gái dạy cho loài người biết lượn, làm đàn Tính. Chuyện ông Bế Văn Phụng[9] chế tác đàn Tính phục vụ nhà Mạc trên Cao Bằng. Chuyện về chàng Xiên Câm, người lấy lá cây Dâu từ trên trời về nuôi tằm, xe sợi tạo dây đàn, trồng cây Bầu lấy quả Bầu chế thành bầu đàn, cán đàn sừng đàn làm từ cây khảo hương và cây lý, những loài cây có hương thơm mọc khắp nơi, ra hoa đẹp nở suốt bốn mùa. Các truyền thuyết trên là niềm tự hào của người Tày.
Dây đàn Tính truyền thống trước đây dùng tơ tằm xe lại, sau đó lấy sáp ong hoặc nhựa củ nâu chuốt đi chuốt lại nhiều lần giúp dây bền và không rè, hiện nay được thay thế bằng dây nilông. Đàn Tính 2 dây lên dây theo hai kiểu quãng: 4 đúng (rê- sol), 5 đúng (đô- sol), nhiều vùng như Bắc Kạn, Lạng Sơn đàn Tính lên dây thấp hơn 1 cung: đô- fa. Còn đàn 3 dây cách mắc khá đặc biệt: giữa dây dưới- rê và dây trên- sol, dây giữa có cao độ thấp hơn một quãng 8 đúng so với dây trên (rê- sòl- sol), hiệu quả tạo nên âm trầm trì tục khi 3 dây cùng vang lên. Tiếng đàn Tính gọn gàng, ấm áp, hơi đục do hộp cộng hưởng vỏ quả Bàu có mấy lỗ thoát hơi nhỏ đằng sau. Về kỹ thuật diễn tấu, người Tày gảy chủ yếu bằng ngón trỏ, các ngón giữa và áp út chỉ có những người đạt tới trình độ tương đối điêu luyện mới sử dụng. Đàn Tính là loại nhạc cụ của nghi lễ cầu cúng do đó ngày trước ít xuất hiện trong sinh hoạt hát dân ca.
Đồng hành với hát Then, đàn Tính là chùm xóc nhạc- Miạc gồm nhiều quả nhạc nhỏ ghép lại, nối với nhau bằng các vòng tròn bằng sắt hoặc bằng đồng. Xét nguồn gốc ra đời, Hoàng Tuấn[8] đưa ý kiến rất đáng chú ý, Miạc xuất hiện gắn liền với động tác nhảy múa thời nguyên thuỷ, xuất xứ ban đầu là các chùm quả khô bên trong có hạt nhỏ đeo xung quanh người, trải theo thời gian dần biến đổi thành chùm xóc nhạc như ngày nay. Trong nghi lễ hát Then, chùm xóc nhạc tượng trưng cho những chiếc vòng lục lạc trên cổ ngựa, khi chạy phát ra âm thanh nghe réo rắt, do đó Miạc có tên khác là Xáu mạ, nghĩa đen là nhạc ngựa. Nghề Then coi chùm xóc nhạc như con ngựa thiêng được ông bà Then cưỡi dẫn đoàn quan quân lên thiên giới. Giọng hát, đàn Tính, chùm xóc nhạc vang lên tạo thành tổ hợp âm sắc gây ấn tượng đặc biệt, người Tày tin rằng đó là sự tổng hoà các thứ tiếng có trong trời đất qua mối quan hệ biểu tượng: thiên- địa- nhân. Đàn Tính do tiên trời ban cho, chùm xóc nhạc như đoàn âm binh dưới đất, và giọng hát đại diện cho người cùng muôn loài trên dương gian. Về âm nhạc, Miạc luôn tạo nên các nhóm tiết tấu khác nhau, dẫn dắt tiếng đàn điệu hát nhịp nhàng, ổn định, sự kết hợp không cố định giữa các quả nhạc xóc khi rung, lắc tạo âm thanh đa chiều, có màu sắc riêng không lẫn lộn với bất cứ nhạc cụ tự thân vang nào khác.
Cùng với âm nhạc (đàn Tính, chùm xóc nhạc, giọng hát) không thể không nhắc tới trang phục Then, nổi trội và đặc trưng nhất trong nghi lễ cấp sắc Lẩu Then. Màu sắc quần áo then mặc chủ yếu dùng các gam màu nguyên tông như: đỏ, vàng, tím, trắng, chàm, khác hẳn với kiểu phối màu của hầu đồng người Việt. Mỗi màu Then mặc đều ứng với từng vị thần linh, do đó trong một buổi lễ Then phải thay đổi y phục nhiều lần, đây là ước định giúp Then phô diễn hết khả năng trong mỗi hình thức nghi lễ nhất định. Tính thuần nhất về màu phân biệt rõ ràng giữa Then và người bình thường trong ăn mặc sinh hoạt hàng ngày. Lễ phục Then mặc kết hợp với không gian nghi lễ đã hình thành nên một sân khấu dân gian rực rỡ sắc màu, ở đó Then đóng vai chính toàn bộ buổi biểu diễn. Sự sắp đặt trình tự lễ theo quy trình thời gian được Then chuẩn bị chu đáo. Đó chính là những nghệ nhân trình diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc, sản phẩm kết tinh từ văn hoá Tày kế thừa toàn bộ di sản truyền thống, tự thân phát triển tới trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trải qua thời gian, những nghệ nhân Then đã phát huy tối ưu kinh nghiệm, hiểu biết nghề Then, được cộng đồng chấp nhận như người ưu tú, tiêu biểu cho phức hệ tín ngưỡng Tày.
5. Tạm dừng nội dung- thay cho lời kết
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Then Tày, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá dân gian, dân tộc học, ngữ văn. Nhưng về âm nhạc học nói chung và âm nhạc tộc người nói riêng từ trước đến nay không nhiều, có thể nêu một số nhà nghiên cứu tiêu biểu: GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Thuỵ Loan, nhạc sĩ Hoàng Tuấn, nhạc sĩ Nông Thị Nhình…tất cả đều xuất phát từ nhận thức độc lập, say mê với làn điệu dân ca vùng, miền. Tác giả viết bài này chỉ mong muốn tìm tòi, suy ngẫm những thành quả đã đạt được của nhiều người đi trước. Bởi âm nhạc tộc người ở Việt Nam vẫn là mảnh đất luôn thu hút nhiều sự quan tâm hơn, cần nghiên cứu sâu và có hệ thống.
Then Tày ẩn chứa đa phức thể nguyên hợp, định dạng nghiên cứu Then từ nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần giải mã hiện tượng Then, hình thái văn hoá- tín ngưỡng- nghệ thuật tiêu biểu của người Tày, từ đó góp phần sáng tỏ các phương thức diễn xướng dân gian của nhiều tộc người khác trên đất nước Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Trong nước
1. Nguyễn Thị Hiền, (2000), Người diễn xướng then: Nghệ nhân hát dân ca và thầy shaman, Tạp chí văn học số 5. H.
2. Hoàng Đức Hoan, Đỗ Đình Thông, Ma Xuân Thu (chủ biên), (2004), Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
3. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), (1997), Văn hoá tín ngưỡng Tày- Nùng, Viện nghiên cứu văn hoá dân gian, H.
4. Nguyễn Thuỵ Loan, (1997), Tín ngưỡng tôn giáo và ca nhạc cổ truyền Việt Nam, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số3, H.
4. Lã Văn Lô, (1963), Quanh vấn đề An Dương Vương Thục Phán hay là truyền thuyết Cẩu Chủa Cheng Vùa của đồng bào Tày, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 50, H.
5. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, (1984), Văn hoá Tày Nùng, Nxb Văn hoá, H.
6. Ngô Đức Thịnh, (2000), Then- Một hình thức shaman của dân tộc Tày ở Việt Nam, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật số 4, H.
7. Võ Quang Trọng, (2001), Bước đầu so sánh nghi lễ hầu đồng của người Việt và nghi lễ then của người Tày, Tạp chí Văn hoá dân gian số 2, H
8. Hoàng Tuấn, (2000), Âm nhạc Tày, Nxb Âm nhạc, H.
9. Nguyễn Thị Yên, (2006), Then Tày, Nxb Khoa học xã hội, H.
10. Nguyễn Thị Yên, (2000),Thờ Mẫu trong tín ngưỡng của người Tày, Nùng, Tạp chí Văn hoá dân gian số 3 , H.
B. Nước ngoài
11. A.X Tocarev, (1990), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, Nxb Chính trị quốc gia, H.
12. Eliade, Mircea, (1969), Shamannism: Archaic Techniques of Estasy- Shaman giáo: Kỹ thuật xuất nhập thần cổ sơ, Pari.
13. Heize, Ruth- Inge, (1988), Trance anh healthing in Southeast Asia Today- Trạng thái nhập thần và chữa bệnh ở Đông Nam Á ngày nay, Bankok, Thailand.
Là cư dân bản địa, môi sinh người Tày chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhiều từ thời tiết, điều kiện tự nhiên. Do đó trong nhiều truyện cổ tích, thần thoại đã hình thành hệ thống thế giới đa tầng thể hiện vũ trụ quan, nhân sinh quan. Dân gian vẫn lưu truyền truyện kể: Ngay từ thủa khai thiên lập địa, trời đất đã phân chia làm 3 cõi mường: Cõi trời (mường bôn, quắc phạ), nơi ở của Ngọc Hoàng, tiên, Then, Pụt. Nếu như trong gia đình có người chết phải tổ chức nghi lễ tiễn linh hồn về cõi trời hưởng vinh hoa phú quý. Cõi đất (trần gian, dương thế) là nơi của người cùng muôn loài. Cõi nước là cõi âm, nơi ở những người chỉ nhỏ bằng chiếc bình vôi. Người Tày quan niệm 3 cõi này đều có người ở với đặc điểm: người cõi trời thắt dao ngang đầu, người dương gian thắt dao ngang lưng, người cõi âm thắt dao ở mắt cá chân[5].
Con người trên trần gian đều do Pụt Luông sinh ra để cai quản chế ngự muôn loài, người có xác và hồn- khoăn, người ốm hồn lìa khỏi xác, người chết hồn biến thành phi. Danh từ phi dịch sang tiếng Việt là ma, tuy vậy ma mang hàm nghĩa rất rộng, chỉ tất cả thần thánh, ma quỷ ở 3 cõi trời, đất, âm. Có 2 loại: ma lành và ma dữ, ma lành được thờ còn ma dữ chỉ xuất hiện khi có bệnh tật, ốm đau, do đó phải nhờ thầy Then đến cúng đuổi con ma ấy ra khỏi người.
Trong văn hoá tín ngưỡng người Tày, quan trọng nhất là tục thờ cúng tổ tiên, đây là hình thức cúng phổ biến trong tất cả các nhóm cộng đồng. Quan niệm ông bà, cha mẹ sau khi chết nhưng linh hồn/ phi vẫn tồn tại, con cháu phải lập bàn thờ cúng bái hàng năm. Đây là tục xuất hiện vào giai đoạn thị tộc phát triển, sự ổn định và củng cố vững chắc mối quan hệ giữa các nhóm cá nhân nảy sinh yêu cầu bảo vệ dòng họ, thị tộc[5]. Tục thờ cúng tổ tiên là lớp tín ngưỡng bản địa được bồi đắp liên tục qua từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau trong đời sống tâm linh người Tày. Điển hình là hệ tư tưởng tam giáo (Phật, Đạo, Nho) đã gia cố chế độ tông tộc phụ quyền, tiêu biểu là vị thế bàn thờ luôn được đặt nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Ngoài ra trong gia đình người hát Then có thêm bàn thờ tổ sư nghề cúng bái (bát hương để cao hơn bát hương thờ tổ tiên), được trang hoàng lộng lẫy bằng những tua cắt hình chim én màu sắc sặc sỡ với chú niệm dùng vào việc truyền tin đưa hồn vía lên chơi chợ trời (trong lễ hỉn én).
Bên cạnh tục thờ cúng tổ tiên, tục thờ Mẫu cũng rất phát triển, khởi phát từ lối tư duy nông nghiệp cầu mong vạn vật sinh sôi nảy nở, thờ Mẫu gắn với tín ngưỡng phồn thực, biểu hiện tính duy sinh trong nghi lễ Then. Truyền thuyết về Pú Lương Quân trên Cao Bằng với sự tích vợ chồng khổng lồ Báo Luông- Trai to và Sao Cải- Gái lớn[10] là những người đầu tiên làm nghề nông. Hình tượng Sao Cải luôn nổi bật, nhấn mạnh vào vai trò người mẹ/ nữ thần nông nghiệp giống như Âu Cơ của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ và Pô-na-gar của người Chăm vùng Trung, Nam Trung Bộ. Từ tâm thức tính nữ, người Tày tạo nên Nàng Trăng với lễ hội Nàng Hai tổ chức hàng năm tiêu biểu cho việc tôn thờ Mẹ lớn- Sao Cải.
Trong các gia đình Tày việc thờ Mẻ Bjoóc- Mẹ Hoa/ Hoa Vương Thánh Mẫu giống như Bà Mụ của người Việt, đây là vị thần cai quản việc sinh nở. Mẻ Bjoóc phân định ra con trai sinh ra từ cây Hoa vàng và Hoa bạc tạo ra con gái[3], đồng thời bảo trợ tình yêu, sức khoẻ, cuộc sống con người. Bát hương Mẻ Bjoóc đặt trang trọng ngang hàng với tổ tiên trên bàn thờ.
Đối với cộng đồng sống thành bản hoặc tập trung thành nhiều bản, người Tày có nhiều tục cúng lễ khác như thờ các vị thần/ phi bản phi mường tại miếu, đình (hoặc đính)[2], nhiều nơi đình còn có chức năng của đền. Miếu là nơi thờ thổ công/ thần đất có nhiệm vụ che chở, bảo vệ mọi người, trong dân gian thổ công là người giúp đỡ và có công lao xây dựng làng bản. Vào mùa xuân, người Tày mở hội Lồng tồng tế thần nông, cầu cúng mùa màng, thổ công biến thành vị thần bảo trợ cho việc làm ăn phát đạt, thuận lợi[5]. Còn Thành hoàng là vị thần được thờ trong đình, cùng thổ công trong coi canh tác, chăn nuôi, sự an khang của cả mường (nhiều bản). Về chức năng, thành hoàng cai quản địa bàn rộng hơn thổ công. Xét theo sử- văn hoá có thể nhận thấy thành hoàng bắt nguồn từ nguyên gốc vị thần bản mệnh bản mường (phi bản, phi mường), sau đó chịu ảnh hưởng thờ thành hoàng của người Kinh (thời phong kiến tự chủ các triều đình phong thần thành hoàng làng) đã tác động, biến cải tên thần bản thần mường thành thành hoàng[2].
Qua một số yếu tố thờ cúng chính đã nêu ở trên, nói chung người Tày đã xây dựng nên hệ tín ngưỡng đa dạng với tín niệm đa vật linh. Quá trình dung hợp với người Kinh, người Hán tạo nên một phức hợp phong tục, lễ nghi được Then quy tập trong nhiều hình thức nghi lễ, nhưng trước hết tín ngưỡng người Tày có những đặc điểm sau:
- Thờ vật tổ (tôtem giáo): là tục ra đời sớm nhất, thuộc dạng tín ngưỡng sơ khai, xuất hiện từ thời kỳ công xã thị tộc. Trải qua thời gian dấu vết tôtem giáo chỉ còn mờ nhạt trong truyện cổ tích, thần thoại, trong các kỵ hèm của một số dòng họ.
- Gắn với xã hội thuần nông: gồm có nhiều tục khác nhau như tục mừng tiếng sấm (tháng 4, 5 âm lịch), người Tày vỗ tay vào bịch thóc đánh thức hồn lúa dậy bắt đầu vào vụ mùa. Nếu không mưa thuận gió hoà thì làm lễ cầu đảo (cầu mưa), trong lễ trai gái đánh trống đập mẹt giả làm tiếng sấm, tuốt lạt hay lá cọ thay tiếng mưa.
Tiêu biểu nhất là hội lồng tồng- hội xuống đồng, lễ diễn ra ngoài đồng, tuỳ theo từng nơi mà có các tục như: bầy cỗ của các gia đình cúng thần rồi tổ chức ăn uống, làm hình nộm thần nông bằng rơm, đặt giữa ruộng mang lễ đến bón thức ăn cho thần, có nơi mở đầu bằng việc cày những luống cày đầu tiên mang tính tượng trưng. Trong hội lồng tồng người Tày tổ chức các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, chọi gà, hát giao duyên.
Ngoài ra còn các lễ như: cúng vía trâu- khăn vài sử dụng cành cây núc nác, lấy mấu có hình giống đầu gối con trâu làm lễ. Lễ cơm mới (khẩu mấu) đón mừng vụ thu hoạch, cảm ơn tổ tiên và thần nông.
- Chịu ảnh hưởng của tam giáo: những diễn biến tác động của Phật, Đạo, Nho tạo ảnh hưởng sâu sắc vào tín ngưỡng Tày. Mặc dù không du nhập nguyên xi nhưng về cơ bản tam giáo đã thẩm thấu và phủ lên tín ngưỡng bản địa một lớp văn hoá. Tuỳ theo đặc điểm, hoàn cảnh, thời gian những ảnh hưởng này không thuần nhất mà mang tính pha tạp từ nhiều nguồn, qua nhiều tầng bậc khác nhau. Một mặt tam giáo vừa nâng cao, cố định hoá các hình thức nghi lễ, cầu cúng, mặt khác cũng làm mai một, biến dạng tín ngưỡng người Tày.
Những cứ liệu lịch sử cho thấy tổ tiên người Tày thuộc nhóm Âu Việt (Tây Âu) trong khối Bách Việt, ngay từ thiên niên kỷ cuối cùng trước công nguyên là chủ nhân trên vùng đất rộng lớn từ miền nam Trung Quốc kéo dài xuống toàn bộ phía đông bắc Việt Nam. Âu Việt liên minh cùng Lạc Việt tạo nên vương quốc Âu Lạc- Mô hình nhà nước đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên mà thủ lĩnh người Tày cổ là Thục Phán An Dương Vương[5, tr.3], đồng thời truyền thuyết (được coi như dã sử) Cẩu Chủa Cheng Vùa được Lã Văn Lô [4] công bố năm 1963 cũng cho thấy nhiều tình tiết gần gũi với cổ sử Việt Nam, điều này minh chứng địa bàn Tày cổ giai đoạn này đã mở rộng xuống tận vùng Kinh Bắc, nhiều nhóm Âu Việt cùng hoà nhập vào nhóm Lạc Việt làm cơ sở hình thành dân tộc Việt hiện đại.