Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương logo

NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA NGHỀ MO NGƯỜI THÁI Ở HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU  

                                                                                                   HÀ VĂN TRUNG

Nghề Mo của người Thái ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu là một di sản văn hóa quan trọng, phản ánh sâu sắc đời sống tín ngưỡng, lịch sử và bản sắc dân tộc. Nghề Mo không chỉ đóng vai trò là cầu nối giữa con người với thế giới siêu nhiên mà còn giúp bảo tồn văn hóa thông qua các nghi lễ, bài Mo và nghệ thuật truyền thống. Dưới tác động của toàn cầu hóa, nghề Mo đang đứng trước nguy cơ mai một, đòi hỏi những nỗ lực bảo tồn và phát huy. Việc giữ gìn nghề Mo không chỉ giúp thế hệ trẻ hiểu biết về truyền thống mà còn góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa dân tộc Thái và cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bảo tồn nghề Mo không chỉ là trách nhiệm của người làm nghề mà cần có sự chung tay của cả cộng đồng và chính quyền để giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.

 

Nghề Mo hay còn gọi là thầy mo là một nghề được coi là linh hồn của mọi bản mường, thầy mo vừa là điểm tựa tinh thần cho cộng đồng vừa là những pho sử sách sống giữ gìn lễ nghi, phong tục, lịch sử, chữ viết và văn hóa của dân tộc Thái. Thầy mo không phải là nghề chọn học để làm mà có thể coi là một nghiệp khi ai đó vì một cơ duyên nào đó mà được truyền nghề, rồi theo nghề để phục vụ cộng đồng. Họ có vai trò rất quan trọng trong các buổi lễ trong suốt tiến trình của một đời người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi và trong mọi hoạt động tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng hay còn được coi là chủ tế trong các nghi lễ linh thiêng như lễ xên bản, xên mường, lễ tế thần sông thần núi, lễ thôi sưởi lửa, lễ cúng vía, lễ cưới, lễ tiễn đưa người chết, lễ mừng nhà mới, lễ hội cơm mới,… Công việc cúng tế trong mọi nghi thức thường do đàn ông đảm nhiệm nhưng cũng có những trường hợp là nữ giới. Để trở thành một thầy mo, đầu tiên người ấy phải có nhân phẩm tốt và được nhiều người trong bản làng tín nhiệm. Người làm thầy mo sẽ thông qua những cơ duyên mà được nối nghiệp từ tiền bối, nhiều nhất là truyền lại từ các bậc tiền bối hành nghề thầy mo trong dòng họ, nếu như người được truyền nghề ngoài họ thì sẽ được làm lễ nhận làm con nuôi.

            Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Thái ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của sự mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Thái nói chung và người Thái ở huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu nói riêng đang dần bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc trong đó có nghề Mo. Khi kinh tế du lịch đang phát triển mạnh mẽ bao trùm khắp các bản làng của các dân tộc thì người Thái vẫn còn đang lưu giữ và bảo tồn đầy đủ những giá trị văn hoá truyền thống đáng quý của nghề Mo.

  1. Giá trị lịch sử

Nghề Mo trong đời sống văn hóa dân tộc Thái có nguồn gốc từ hệ thống tín ngưỡng phức tạp xoay quanh vũ trụ quan về mối quan hệ giữa con người với các lực lượng siêu nhiên. Từ xa xưa, người Thái đã tin rằng thế giới quanh họ không chỉ có những yếu tố vật chất mà còn có sự hiện diện của các thế lực vô hình, như thần linh, ma quỷ và hồn vía. Trong quan niệm tâm linh người Thái có câu “Xàm xíp khuồn mang nả, hả xíp khuồn mang lằng” có nghĩa là mỗi một con người có 80 mười hồn vía, trong đó có 30 hồn vía ở phía trước và 50 hồn vía ở phía sau. Con người khỏe mạnh thì 80 hồn vía phải hội tụ đầy đủ trong cơ thể, nếu một trong số hồn vía đi lạc thì cơ thể sẽ bị ốm yếu. Thế giới siêu nhiên được người Thái quan niệm gồm có 3 tầng là Mương Phạ (Mường trời), Mương Lum (Mường trần gian), Mương Pùa Ngượk (Mường vua thuồng luông hay Mường nước). Đấng tối cao cai quản 3 tầng này là Then Luông (Ngọc hoàng), ở mỗi mường đều có các vị thần cai quản theo các cấp bậc của mình. Những thế lực này có thể tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người, từ sức khỏe, hạnh phúc, đến thành công trong công việc và các mối quan hệ xã hội. Do đó, việc giao tiếp và làm hài lòng những thế lực siêu nhiên thông qua các nghi lễ trở nên rất quan trọng. Đây chính là nền tảng ra đời của nghề Mo.

Theo cuốn sách cổ được ghi bằng chữ Thái từ thế kỷ XI mang tên “Quam tô mương” (Truyện kể bản mường) của người Thái đen ở Tây Bắc đã phân định vai trò của nghề mo rất rõ ràng qua câu “Xính Lương dệt mò, xính Lo dệt tạo” (Họ Lường làm mo, họ Lò làm tạo). Như vậy, ngay từ những khoảng thời gian đầu lập bản dựng mường ở Tây Bắc Việt Nam người Thái đã xây dựng luật tục quy định cho họ Lò được cha truyền con nối đời đời làm phìa tạo cai quản bản mường, còn họ Lường giữ quyền làm nghề mo truyền tiếp phụ trách công việc nghi lễ, cúng bái, ghi chép gia phả, luật tục và giúp phìa tạo quản lý các công việc liên quan đến tinh thần của cộng đồng.

Các nghi lễ do thầy mo thực hiện cũng là dịp để người Thái nhớ lại và tái hiện những câu chuyện truyền thống, những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc mình. Thông qua nghề Mo, những câu chuyện về lịch sử, về tổ tiên và những bài học đạo đức được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác. Xưa kia, mo là một chức quan lớn trong hệ thống cai quản bản mường của người Thái ở Tây Bắc, ngoài việc giúp phìa tạo thực hiện các nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng, cúng bái thì ông mo còn có vai trò rất quan trọng đó là ghi chép lịch sử của bản mường.

  1. Giá trị tín ngưỡng, niềm tin

Trong đời sống văn hóa người Thái, nghề Mo gắn liền với rất nhiều nghi lễ quan trọng của một đời người từ lúc mới sinh ra cho đến khi chết đi. Mỗi nghi lễ mà thầy mo thực hiện đều mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc, từ việc chữa bệnh, cầu an, đến việc tiễn đưa linh hồn người chết về với tổ tiên. Các nghi lễ này không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cá nhân và gia đình mà còn có ý nghĩa đối với cả cộng đồng.

Một trong những nghi lễ quan trọng nhất mà thầy mo thường thực hiện là lễ tang (dệt phi). Trong lễ tang, thầy mo đóng vai trò dẫn dắt linh hồn người chết rời khỏi thế giới thực và lên thế giới của tổ tiên. Quá trình này không chỉ đòi hỏi sự thành thạo về mặt nghi lễ mà còn yêu cầu thầy mo phải có kiến thức sâu về các bài mo và cách điều khiển các lực lượng siêu nhiên. Các nghi lễ tang lễ thường diễn ra trong vòng 2-3 ngày với nhiều giai đoạn phức tạp, từ việc kêu gọi hồn vía đến việc tiễn đưa linh hồn về với tổ tiên.

Ngoài lễ tang, các thầy mo còn thực hiện nhiều nghi lễ khác như lễ cầu sức khỏe (xền khoằn), lễ gọi hồn (khék khoằn), lễ cầu mùa cho toàn mường (xền mương) và lễ cúng đất đai (xền bản), lễ thôi sưởi lửa (nhá căm bườn), lễ cúng rừng (xền đồng), lễ lên nhà mới (khửn hươn máư). Mỗi nghi lễ đều có những yêu cầu và quy trình riêng, nhưng điểm chung là đều yêu cầu thầy mo phải có kiến thức sâu rộng về tín ngưỡng dân gian, cũng như khả năng giao tiếp với thế giới siêu nhiên thông qua nghi lễ.

* Bài mo

            Bài mo, với vai trò là áng văn bằng lời do các thầy mo đọc lên trong các nghi lễ tín ngưỡng, đặc biệt là trong đám tang, đóng một vị trí vô cùng quan trọng trong văn hóa tâm linh dân tộc Thái. Trong các nghi lễ, bài mo không chỉ mang ý nghĩa là lời cầu nguyện, mà còn là phương tiện để các thầy mo giao tiếp với hồn vía và các thế lực siêu nhiên. Nội dung các bài mo cho thấy khả năng “xuất hồn” của thầy mo – một đặc điểm khiến nhiều nhà nghiên cứu liên tưởng đến Shaman giáo, một hình thức tín ngưỡng phổ biến ở các dân tộc bản địa trên thế giới.

Nội dung bài mo tiễn hồn người chết về với tổ tiên là một con đường đi ngược theo dấu vết cha ông đã chinh chiến mở mang xây dựng bản mường. Đó là đường đi từ nơi người chết lúc còn sống men theo các bản mường như Mường Thanh (Điện Biên), Mường Than (Than Uyên, Lai Châu) qua Mường La (huyện Mường La và TP Sơn La), Mường Muổi (Thuận Châu, Sơn La) rồi tiếp tục qua Mường Chiến (huyện Mường La, Sơn La) vượt đồi Khau Cả về Mường Lò đất tổ (TX Nghĩa Lộ, Yên Bái). Rồi mới đến tắm ở thác nước mang tên “Nặm tốc tát” để gột rửa bụi trần, sau đó dẫn hồn vượt qua “Nặm Tà Khái” (sông Ngân Hà) để bay về trời. Tùy theo dòng họ và cấp bậc, địa vị của người đó khi sống sẽ được đưa hồn về các vị trí khác nhau. Ví dụ như họ quý tộc (Lò, Cầm, Đèo, Sa, Bạc Cầm…) sẽ được đưa về “liên pan luồng” (niết bàn lớn) là vị trí cao nhất trong tầng Trời, các họ bình dân chỉ được đưa hồn lên với “đẳm đòi” (tổ tiên) hoặc lên cao nhất là “liên pan nọi” (niết bàn nhỏ). Những trường hợp trẻ con chưa trưởng thành chết sẽ đưa hồn về “mương phì cướt” (mường ma nhỏ), trai gái thanh niên chưa vợ chưa chồng chết sẽ đưa hồn về “khuống phì chuông” (sân ma tình yêu), phụ nữ chết lúc sinh đẻ, hay chết do bị đâm chém, cướp bóc, tử trận sẽ được tiễn hồn về “mương phì pai”, người chết dịch sẽ được tiễn hồn về “mương phì ha”.

Bài mo không chỉ là phương tiện để các thầy mo thực hiện các nghi lễ mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa, nhân sinh quan và vũ trụ luận dân tộc Thái. Qua các bài mo, người Thái thể hiện niềm tin của mình vào mối quan hệ giữa người sống và người chết, giữa con người và thế giới siêu nhiên. Những niềm tin này phản ánh sự tôn trọng và kính ngưỡng dân tộc Thái đối với tổ tiên và đồng thời cũng là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của các thực hành tín ngưỡng tôn giáo trong cộng đồng.

  1. Giá trị thẩm mỹ

Trang phục của thầy mo không chỉ mang tính chất thẩm mỹ mà còn có giá trị biểu tượng sâu sắc. Mỗi bộ trang phục của thầy mo đều chứa đựng những yếu tố liên quan đến tín ngưỡng và chức năng tâm linh mà họ thực hiện. Tùy theo từng nghi lễ, thầy mo sẽ mặc các bộ trang phục khác nhau, nhưng nhìn chung, trang phục của thầy mo thường có những đặc điểm chung, thể hiện sự kết nối giữa con người và thế giới siêu nhiên.

Bộ trang phục cơ bản của thầy mo bao gồm áo dài, quần dài và một số phụ kiện khác như khăn đội đầu, vòng cổ và các vật dụng đi kèm như gươm, dao hoặc rìu bằng đồng. Áo dài của thầy mo thường có màu đen hoặc xanh chàm, tượng trưng cho sự trang nghiêm và tôn kính. Chiếc mũ hoặc khăn đội đầu (khằn một) là một phần không thể thiếu trong trang phục của thầy mo, thường được thắt một cách cẩn thận và được coi là biểu tượng của trí tuệ và sự thông thái được thêu hình hoa lá, muông thú màu sắc hài hòa đẹp mắt, phía sau lưng có đính nhiều tua dài chum xuống dưới thắt lưng. Đai buộc thắt lưng gọi là “tại khóa” được trang trí bằng cách thêu chỉ màu sặc sỡ với những hình thù chim muông hoa lá gồm hình con thuồng luồng, con rồng, con ngựa, con gà, có hình hoa lá, cầu vồng, trái tim, mák hính. Khăn đội đầu và đai buộc thắt lưng có ý nghĩa đặc biệt, như một biểu tượng bảo vệ thầy mo khỏi sự tấn công của các thế lực ma quỷ trong lúc hành lễ.

Ngoài trang phục chính, thầy mo còn mang theo những vật phẩm tâm linh khác, chẳng hạn như kiếm, dao được coi là những vật phẩm có sức mạnh trừ tà và bảo vệ thầy mo trong quá trình thực hiện nghi lễ. Mỗi thầy mo cũng có bàn thờ riêng (hỉnh một) để thờ tổ nghề và trước mỗi buổi lễ, họ phải cúng bái tổ tiên để xin phép sử dụng các “xeng” (âm binh) trong các nghi thức.

Đặc biệt, trong các lễ tang hoặc lễ lớn của cộng đồng, trang phục của thầy mo còn được tô điểm bằng những chi tiết phức tạp hơn, nhằm thể hiện sự tôn nghiêm và tính chất thiêng liêng của buổi lễ. Tùy thuộc vào dòng mo mà người thầy theo đuổi, trang phục của họ có thể khác nhau về kiểu dáng và màu sắc, thể hiện sự khác biệt về chức năng và vai trò trong nghi lễ.

Chiếc mũ đội đầu và đai thắt lưng của mo được trang trí cầu kỳ đẹp mắt

Nguồn: tác giả chụp ngày 15/4/2022 tại bản Nà Hoi, xã Thân Thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.

  1. Giá trị văn hóa

Nghề Mo không chỉ mang giá trị tâm linh mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Thái. Trong quá trình thực hiện các nghi lễ, thầy mo không chỉ là người kết nối giữa con người và thế giới siêu nhiên mà còn là người truyền tải những giá trị văn hóa truyền thống qua các bài mo và các hành động nghi lễ. Các bài mo, được truyền miệng qua nhiều thế hệ, là những áng văn chương bằng lời, chứa đựng nhiều tri thức về văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng dân tộc Thái.

Về mặt ngôn ngữ, nghề mo giữ  gìn và bảo tồn vốn tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình thông qua những bài mo, bài cúng. Đặc biệt là những bài mo được ghi lại thành văn bản bằng chữ Thái trong sách cổ. Đây là những tư liệu quý giá để nghiên cứu, tìm hiểu và bảo lưu ngôn ngữ thuần Thái cho con cháu.

Mo Thái, đặc biệt là trong các nghi lễ tang lễ, chứa đựng những quan niệm sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với thế giới siêu nhiên, giữa người sống và người chết. Các nghi lễ do thầy mo thực hiện không chỉ nhằm mục đích an ủi linh hồn người chết mà còn củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng. Điều này giúp duy trì sự gắn kết trong xã hội người Thái, nơi các giá trị gia đình và cộng đồng được đề cao. Thông qua nghi lễ dăn dạy con người khi sống cần có tình có nghĩa, yêu thương, đùm bọc nhau, làm những điều hay lẽ phải để mong rằng khi chết đi sẽ được về nơi có hạnh phúc.

Ngoài ra, nghề Mo còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn những di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Thái. Các bài mo, với ngôn ngữ cổ và các hình ảnh văn chương phức tạp, là kho tàng văn học dân gian có giá trị. Đặc biệt, thầy mo còn là người giữ gìn và bảo lưu nghệ thuật truyền thống của dân tộc Thái đó là: giữ gìn nghệ thuật đan lát thông qua đan các vật thiêng như “pók ngơn nga” (chùm tiền), “tà lèo” (phên mắt cáo), “xặng bók” (cây vũ trụ); giữ gìn nghệ thuật trang trí cắt giấy màu như “nộc én” (chim én), “xuổng xửa chỉa” (quần áo giấy), “hươn khuồn” (nhà hồn); giữ gìn âm nhạc cổ như đàn tính, sáo, khắp một; giữ gìn nghệ thuật múa thông qua việc mo truyền dạy múa nghi lễ cho các “xào chạư” và “báo khỏa”.

Múa chầu phá xí trong lễ mo then cầu an

Nguồn: Tác giả chụp ngày 15/07/2024 tại nhà người dân ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu

Trong bối cảnh hiện đại, nghề Mo vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc Thái. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa và sự thay đổi của xã hội, nhưng nghề Mo vẫn tồn tại và được coi trọng. Nhiều thầy mo đã được phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú vì những đóng góp trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống. Nghề Mo không chỉ là một phần của tín ngưỡng dân gian mà còn là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa đặc trưng dân tộc Thái tại huyện Than Uyên.

KẾT LUẬN

Nghề Mo của người Thái ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu không chỉ là một tín ngưỡng dân gian mà còn là một di sản văn hóa quan trọng, phản ánh sâu sắc đời sống tâm linh, lịch sử và bản sắc dân tộc. Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, đô thị hóa và sự phát triển kinh tế – xã hội, nghề Mo cũng đang đối diện với nhiều thách thức, nguy cơ mai một. Tuy nhiên, với giá trị lịch sử lâu đời, ý nghĩa tâm linh sâu sắc, cùng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa, nghề Mo vẫn đang được cộng đồng người Thái gìn giữ và phát huy như một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của họ.

Việc bảo tồn và phát huy nghề Mo không chỉ đơn thuần là giữ gìn một nghi lễ tín ngưỡng, mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng trong việc bảo vệ những giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc. Chính quyền địa phương, các tổ chức văn hóa và người dân cần có những biện pháp cụ thể nhằm bảo tồn nghề Mo, từ việc truyền dạy cho thế hệ sau, ghi chép, số hóa các bài Mo, đến việc vinh danh những người có công bảo tồn di sản.

 

 

  1. TÀI LIỆU THAM KHẢO
  2. Đại học Quốc gia Hà Nội – Chương trình Thái học Việt Nam (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
  3. Đỗ Thị Tấc, Lò Văn Sơi (2011), Then Thái – Lời ca trong then của người Thái trắng Lai Châu, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
  4. Đặng Thị Oanh (2011), Văn hóa Thái những tri thức dân gian, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
  5. Đỗ Thị Tấc, Lò Văn Sơi (2011), Then Thái – Lời ca trong then của người Thái trắng Lai Châu, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
  6. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (2003), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
  7. Vương Trung (1999), Mo Khuôn, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.