ỨNG DỤNG ALBUM FOR THE YOUNG OP. 68 CỦA ROBERT SCHUMANN TRONG GIẢNG DẠY PIANO: TRƯỜNG HỢP TẠI CUNG THIẾU NHI HÀ NỘI
Nguyễn Hải Yến
Học viên K18 – Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc
Robert Schumann “là một nhạc sĩ người Đức, một trong những nhạc sĩ kiệt xuất của chủ nghĩa lãng mạn” [2, tr.161]. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu viết cho piano của ông là Album For the Young Op. 68, được sáng tác với mục đích giáo dục và phát triển kỹ thuật cho chủ yếu người chơi đàn ở trình độ sơ cấp. Không chỉ mang giá trị về mặt kỹ thuật, các tiểu phẩm trong tuyển tập còn có tính nghệ thuật cao, giúp nuôi dưỡng cảm xúc và tư duy âm nhạc của người học.
Tại Cung Thiếu nhi Hà Nội, việc ứng dụng các tiểu phẩm trong Album For the Young, Op. 68 vào giảng dạy mang đến nhiều lợi ích thiết thực. Bài viết này sẽ phân tích sâu hơn về cách ứng dụng Album vào giảng dạy, từ việc lựa chọn tiểu phẩm phù hợp, phương pháp tiếp cận hiệu quả đến tác động đối với học sinh.
- Giới thiệu về Album For the Young Op. 68
For the Young Op. 68 là một trong những tác phẩm tiêu biể dành cho người mơi học đàn piano. Tuyển tập gồm 43 tiểu phẩm, được tác giả sáng tác vào năm 1848 dành cho ba cô con gái của mình. Robert Schumann từng chia sẻ: “Tôi đã viết vài tác phẩm đầu tiên như một món quà sinh nhật cho đứa con lớn nhất của chúng tôi” [7, tr.405]. Chính từ sự quan tâm này, ông đã dành thời gian để sáng tác các bản piano ngắn gọn, mang đậm tính giáo dục nhưng không kém phần nghệ thuật.
Trong 43 tiểu phẩm, có 40/43 tiểu phẩm có tiêu đề cụ thể, 03/43 tiểu phẩm không có tiêu đề. Nội dung của các tiểu phẩm chủ yếu nói về con người, tình yêu, nghệ thuật và thiên nhiên. Tuyển tập được chia thành hai phần với các bài sắp xếp theo mức độ tăng dần từ dễ đến khó. Phần 1 (Số 1 – 18) thường có cấu trúc đơn giản, giai điệu dễ nghe, dễ nhớ và không yêu cầu kĩ thuật phức tạp, phù hợp cho những đối tượng học piano giai đoạn đầu. Phần 2, (Số 19 – 43), ngoài những bài ở hình thức nhỏ, còn có những bài có hình thức lớn hơn (ba đoạn phức, rondo).
- Phân tích đặc điểm âm nhạc của Album For the Young Op. 68
Hình thức cấu trúc: Sau khi phân tích 12 trong số 18 bài phần 1 của Album, các tiểu phẩm được tác giả sáng tác ở những hình thức: hai đoạn đơn, ba đoạn đơn và ba đoạn phức. Đây là những hình thức phổ biến trong sáng tác âm nhạc cổ điển, cấu trúc đơn giản và người học dễ tiếp cận.
Trong Album có tổng cộng 3/12 tiểu phẩm được Schumann sáng tác theo hình thức hai đoạn đơn tái hiện (Số 1, 5, 10), 7/12 bài viết ở hình thức ba đoạn đơn (Số 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9) và 2 tiểu phẩm viết ở hình thức ba đoạn phức (Số 11 và 12). Cấu trúc các tiểu phẩm mang đặc điểm cân phương, vuông vắn, có tính mạch lạc, theo khuôn mẫu đặc trưng của phong cách cổ điển, giúp các em HS khi học dễ dàng cảm nhận và ghi nhớ.
Giai điệu: Schuman tập trung vào việc tạo nên những giai điệu mượt mà, đơn giản, dễ tiếp cận, dễ ghi nhớ, học thuộc và người nghe có thể hát lên được. Mỗi tiểu phẩm mang một sắc thái cảm xúc riêng biệt, từ niềm vui trong trẻo đến nỗi buồn nhẹ nhàng, thể hiện sự phong phú trong cách biểu đạt mà Schumann muốn truyền tải. Khuyến khích HS hiểu rõ sự thay đổi giữa các đoạn nhạc nhẹ nhàng và mạnh mẽ, qua đó giúp các em phát triển khả năng biểu cảm trong âm nhạc.
Kỹ thuật piano: Ba kỹ thuật chơi đàn cơ bản nonlegato, legato, và staccato – đều được Schumann lồng ghép tinh tế trong Album For the Young Op. 68. Như vậy, ông không chỉ giúp HS nâng cao kỹ thuật mà còn phát triển tư duy âm nhạc và khả năng biểu cảm. Các kỹ thuật này đóng vai trò là nền tảng quan trọng để HS tiếp cận các tác phẩm lớn hơn trong tương lai, đồng thời phản ánh tư tưởng sư phạm sâu sắc của Schumann trong việc giáo dục âm nhạc.
Từ những đặc điểm âm nhạc trên, chúng tôi cho rằng Album For the Young Op. 68 của Robert Schumann là lựa chọn phù hợp để giảng dạy cho HS tại Cung Thiếu nhi Hà Nội theo tiến trình của chương trình đào tạo.
- Ứng dụng Album For the Young Op. 68 trong giảng dạy piano tại Cung Thiếu nhi Hà Nội
2.1. Bổ sung tài liệu dạy học vào chương trình giảng dạy
Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy piano tại Cung Thiếu nhi Hà Nội là bổ sung 12 tiểu phẩm trong tuyển tập Album For the Young Op. 68 của Robert Schumann vào chương trình học. Với mục đích sáng tác chính là phục vụ giáo dục âm nhạc cho trẻ em, nên các bài có đặc trưng dễ hiểu, dễ tiếp cận và phù hợp với trình độ của HS ở độ tuổi mới bắt đầu học piano. Chính vì vậy, việc đưa những tiểu phẩm này vào giáo trình sẽ giúp các em không chỉ làm quen với âm nhạc cổ điển mà còn phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc một cách tự nhiên và sâu sắc.
Tiêu biểu như: Melodia, Soldier’s March hay Humming Song,… đều có cấu trúc đơn giản, dễ tiếp cận, lại chứa đựng những giá trị nghệ thuật sâu sắc. HS có thể tập trung vào các yếu tố như độ chính xác trong việc điều khiển ngón tay, sự phối hợp giữa các ngón và các kỹ thuật cơ bản khác như nonlegato, legato hay staccato.
2.2. Dạy kỹ thuật
Việc giảng dạy các tiểu phẩm trong tuyển tập này đòi hỏi sự kết hợp giữa rèn luyện kỹ thuật và phát triển tư duy âm nhạc.
Nonlegato – yêu cầu người chơi tách biệt các nốt nhạc, giữ cho chúng không bị chồng lấn giữa các nốt. Trong 12 bài đầu tiên, duy chỉ có 1 tiểu phẩm được tác giả khai thác trọn vẹn là kĩ thuật nonlegato (số 4 Chorale), trong khi các bài khác, kỹ thuật này chỉ xuất hiện đan xen với các kỹ thuật khác (số 11 Siciliana,…).
Legato là kỹ thuật cơ bản giúp HS tạo sự liên kết mượt mà giữa các nốt nhạc. Trong 12 bài, bài số 1 Melodia là minh chứng tiêu biểu để rèn luyện kỹ thuật này. GV có thể yêu cầu HS sử dụng kỹ thuật legato ở trong nét nhạc ngắn.
Ví dụ 1: Trích đoạn tiểu phẩm 1 Melodia
HS có thể bắt đầu luyện tập bài số 1 Melodia bằng cách thực hành chậm rãi từng câu nhạc, tập trung vào kỹ thuật legato để cảm nhận rõ ràng sự chuyển động mượt mà giữa các nốt. GV cần làm mẫu và hướng dẫn cụ thể: kỹ thuật cổ tay, cánh tay, cách thả lỏng cơ thể.
Đối với ngón tay, GV hướng dẫn HS cần duy trì sự linh hoạt, không đập mạnh xuống phím và đảm bảo mỗi ngón giữ liên kết nhẹ nhàng với các phím liền kề. Bàn tay cần thả lỏng, không căng cứng, để các ngón tay di chuyển một cách tự nhiên. Cổ tay đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự mượt mà của các câu nhạc, cần được giữ linh hoạt để hỗ trợ sự chuyển động giữa các nốt, đặc biệt trong những đoạn có quãng rộng hoặc thay đổi vị trí tay.
Staccato là một kỹ thuật đòi hỏi người chơi phải bật ngón tay khỏi phím ngay sau khi nhấn, làm cho mỗi nốt nhạc trở nên gãy gọn, tách biệt nhưng vẫn duy trì được dòng chảy tự nhiên của âm nhạc. Trong bài số 8 The Wild Rider, staccato được áp dụng chủ đạo trong hầu hết toàn bộ tiểu phẩm để diễn tả tính chất vui tươi và sống động của kỹ sĩ cưỡi ngựa.
Trước khi bắt đầu bài học, GV có thể yêu cầu HS thực hành kĩ staccato ở phần luyện ngón nhằm khởi động và chuẩn bị cho việc áp dụng kỹ thuật này vào bài học.
Ví dụ 2: Trích đoạn tiểu phẩm 8 The Wild Rider
GV nên làm mẫu kỹ thuật staccato, giải thích cách chơi sao cho nốt nhạc ngắn, gọn nhưng vẫn rõ ràng và không bị chói tai. HS có thể nhấn mạnh rằng âm thanh của staccato không chỉ phụ thuộc vào lực bấm phím mà còn ở sự phối hợp nhịp nhàng giữa ngón tay, cổ tay và cánh tay.
Tiếp theo, GV hướng dẫn HS thực hành các câu nhạc ngắn có sử dụng staccato, tập trung vào việc duy trì độ đồng đều về âm lượng và sắc thái giữa các nốt. Đồng thời, cổ tay cần nhấc nhẹ và linh hoạt sau mỗi nốt để tạo sự ngắt quãng tự nhiên. Trường hợp gặp khó khăn trong việc kiểm soát lực, GV có thể yêu cầu các em chơi ở mức âm lượng nhỏ hơn để tập trung vào cảm giác điều khiển.
2.3. Nâng cao khả năng biểu cảm
Kiểm soát tốc độ
Đối với các bài có nhịp độ nhanh như: số 8 The Wild Rider, số 10 The Happy Farmer,… đòi hỏi HS xử lý bài một cách thuần thục, chính xác kỹ thuật. Trong tiểu phẩm số 8 The Wild Rider, tốc độ ở mức Vivace ( = 126), có nghĩa là người chơi cần phải thực hiện ở nhịp độ rất nhanh [Ví dụ 2].
Để thực hiện việc kiểm soát tốc độ hiệu quả, việc đầu tiên là GV cần giúp HS xác định đúng tốc độ bài bằng cách làm mẫu và giải thích ý nghĩa của các chỉ dẫn tốc độ trong bản nhạc. GV có thể sử dụng máy đập nhịp để các em làm quen với nhịp độ bài nhạc, đồng thời giải thích rằng việc hiểu rõ tốc độ tạo ra sự nhất quán và chính xác trong khi trình diễn.
Có thể yêu cầu HS bắt đầu luyện tập với tốc độ chậm, chơi từng phần một cách cẩn thận để đảm bảo rằng các nốt được chơi đúng và không bị vội vàng. Khi đã quen với các kỹ thuật cơ bản trong bài, GV có thể dần dần tăng tốc độ. Việc tăng tốc độ cần phải được thực hiện từ từ và từng bước, với sự kiểm soát về mặt kỹ thuật và cảm xúc, để đảm bảo HS không bị lúng túng khi chơi ở tốc độ nhanh.
Khả năng xử lí sắc thái
Sắc thái âm nhạc là yếu tố không thể thiếu trong việc truyền tải cảm xúc, tính cách và trạng thái của nhân vật trong tác phẩm. Trong bài số 9 Little Folk Song, sắc thái âm nhạc được sử dụng để làm nổi bật vẻ ngây thơ, hồn nhiên và mộc mạc của bài hát dân ca, thay đổi cường độ tinh tế, từ piano đến mezzo forte.
GV tìm hiểu và phân tích cấu trúc tiểu phẩm tới HS, đặc biệt là sự khác biệt rõ ràng giữa hai đoạn về tính chất và sắc thái. Đoạn 1 với giọng thứ mang tính chất thơ ca, nhẹ nhàng, đòi hỏi phải thể hiện được cảm giác sâu lắng qua việc chơi với cường độ nhẹ và sử dụng kỹ thuật legato để tạo sự liền mạch trong giai điệu. GV nên yêu cầu HS luyện tập từng câu nhạc chậm rãi, tập trung vào việc giữ nhịp độ ổn định và cảm nhận tính chất sâu sắc của giai điệu. Với đoạn 2, cần nhấn mạnh sự thay đổi sắc thái từ trầm lắng sang vui tươi và sáng sủa, với sự chuyển giọng từ giọng thứ sang giọng trưởng. GV có thể đàn mẫu để HS nhận biết sự khác biệt giữa hai giọng điệu. Để làm quen với sự thay đổi này, GV có thể chia nhỏ bài học, yêu cầu HS tập trung từng đoạn riêng biệt trước khi kết hợp chúng lại
Phong cách trình diễn
Trong quá trình học piano, việc khám phá và phát triển phong cách cá nhân là yếu tố quan trọng giúp người học thể hiện bản sắc âm nhạc riêng và tạo ấn tượng mạnh mẽ khi biểu diễn. Như bài số 12 Knight Rupert mô tả hình ảnh một hiệp sĩ với tính cách dũng cảm, kiên trì, nhưng đôi khi cũng có sự mềm mại và hài hòa trong cử chỉ. Ở phần đầu với cường độ mạnh và cách chơi nhấn nốt, cần hướng dẫn HS tập trung vào sự chắc chắn và dứt khoát trong từng nốt nhạc, nhằm thể hiện rõ sự uy nghi và mạnh mẽ của nhân vật. Ngược lại, ở những đoạn mang sắc thái nhẹ nhàng hơn, cần hướng dẫn các em điều chỉnh cách chơi để tạo cảm giác bí ẩn, trầm lắng.
Ví dụ 3: Trích đoạn tiểu phẩm số 12 Knight Rupert
GV có thể yêu cầu HS luyện tập biểu diễn trước đám đông để cảm nhận sự tự tin của mình và từ đó làm cho màn trình diễn thêm phần cuốn hút. Việc giao tiếp với khán giả qua ánh mắt và sự biểu cảm trên khuôn mặt cũng sẽ tăng cường khả năng thể hiện cảm xúc qua âm nhạc. Mỗi cá nhân sẽ có một phong cách riêng khi biểu diễn, cần giúp các em khám phá và phát triển phong cách cá nhân của mình. Việc phát triển phong cách riêng sẽ tạo nên một màn trình diễn ấn tượng và độc đáo, gây ấn tượng sâu sắc với khán giả.
KẾT LUẬN
Việc ứng dụng Album For the Young Op. 68 của Robert Schumann trong giảng dạy piano tại Cung Thiếu nhi Hà Nội mang đến nhiều lợi ích thiết thực. Không chỉ giúp học sinh cải thiện kỹ thuật chơi đàn, các tác phẩm này còn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cảm xúc và tư duy âm nhạc. Với phương pháp giảng dạy phù hợp, giáo viên có thể khai thác tối đa giá trị của tuyển tập này, tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận và yêu thích âm nhạc cổ điển từ sớm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tạ Quang Đông, Một số hình thức kỹ thuật cơ bản của nghệ thuật chơi đàn piano, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Tố Mai chủ biên (2014), Giáo trình lịch sử âm nhạc thế giới cho hệ ĐHSP Âm nhạc, Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung uơng, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Tố Mai (2024), Giáo trình Phương pháp dạy học Âm nhạc theo phát triển năng lực, Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương, Hà Nội.
- Đỗ Mạnh Quỳnh, Nhà tuổi thơ 1955-1995.
- Nguyễn Xinh, Thế Vinh – Nguyễn Thị Nhung (1987), Trích giảng âm nhạc thế giới (phần châu Âu) tập I, Nhạc viện Hà Nội.
- Nguyễn Xinh, Thế Vinh – Nguyễn Thị Nhung (1987), Trích giảng âm nhạc thế giới (phần châu Âu) tập II, Nhạc viện Hà Nội.
- Daverio, J. (1997), Robert Schumann: Herald of a “New Poetic Age”. Oxford University Press.
- Ricordi (2018), Schumann Album For the Young Op. 68 per pianoforte, Halleonardmgb, Olanda-In.