Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương logo

TRANH CỦA CÁC HỌA SĨ VIỆT NAM ĐƯỢC ĐƯA VÀO SÁCH GIÁO KHOA MỸ THUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

Lương Công Sơn Tuyền

Lý luận và PPDH bộ môn Mỹ thuật

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay, giáo dục nghệ thuật, đặc biệt là môn Mỹ thuật ở bậc trung học cơ sở (THCS), ngày càng được khẳng định vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 nhấn mạnh việc phát triển phẩm chất, năng lực người học thông qua các hoạt động trải nghiệm, sáng tạo, trong đó môn Mỹ thuật giữ vị trí đặc thù khi vừa nuôi dưỡng cảm xúc, vừa rèn luyện khả năng tư duy nghệ thuật. Một trong những hướng đi có nhiều ý nghĩa là đưa tranh của các họa sĩ Việt Nam vào sách giáo khoa (SGK) và quá trình dạy học. Điều này không chỉ tạo sự phong phú cho tư liệu trực quan mà còn giúp học sinh tiếp cận, thấu hiểu giá trị văn hóa dân tộc thông qua tác phẩm nghệ thuật.

2. Tính chất của việc đưa tranh họa sĩ Việt Nam vào sách giáo khoa Mỹ thuật Trung học cơ sở

Việc lựa chọn và đưa tranh họa sĩ Việt Nam vào SGK Mỹ thuật THCS mang nhiều tính chất quan trọng, thể hiện ở:

Tính giáo dục thẩm mỹ. Các tác phẩm của họa sĩ Việt Nam được sáng tác từ hiện thực đất nước, phản ánh phong tục, tập quán, đời sống lao động, chiến đấu và sinh hoạt của nhân dân. Khi học sinh tiếp cận những hình ảnh này, các em không chỉ rèn luyện khả năng cảm thụ cái đẹp mà còn phát triển năng lực nhận biết ngôn ngữ tạo hình như đường nét, màu sắc, bố cục.

Tính văn hóa – lịch sử. Tranh của các họa sĩ Việt Nam lưu giữ dấu ấn thời đại, thể hiện bản sắc văn hóa qua từng giai đoạn lịch sử. Đưa những tác phẩm này vào SGK chính là cách để kết nối học sinh hôm nay với truyền thống cha ông, khơi gợi niềm tự hào dân tộc và ý thức giữ gìn di sản văn hóa.

Tính gần gũi và thực tiễn. Các hình ảnh trong tranh phản ánh những gì quen thuộc với đời sống hàng ngày: cảnh đồng quê, công trường, phố phường, lễ hội, phong cảnh thiên nhiên. Nhờ vậy, học sinh dễ đồng cảm, từ đó có động lực sáng tạo dựa trên chính trải nghiệm của bản thân.

Tính đa dạng và sáng tạo. Mỹ thuật Việt Nam hiện đại và đương đại có nhiều phong cách, chất liệu, cách thể hiện. Khi xuất hiện trong SGK, chúng không chỉ là minh họa mà còn trở thành nguồn tư liệu mở, khuyến khích học sinh khám phá sự phong phú của nghệ thuật dân tộc và vận dụng sáng tạo vào quá trình học tập.

3. Vận dụng tranh họa sĩ Việt Nam vào dạy học Mỹ thuật ở Trung học cơ sở

Để việc đưa tranh họa sĩ Việt Nam vào dạy học đạt hiệu quả, giáo viên cần có định hướng sư phạm phù hợp. Việc vận dụng có thể triển khai trên một số phương diện như:

Để làm tư liệu trực quan sinh động. Khi học sinh quan sát tác phẩm của họa sĩ Việt Nam, các em có thể phân tích bố cục, đường nét, màu sắc, từ đó rút ra bài học cho bài thực hành. Sự trực quan này giúp các em hình dung rõ hơn thay vì chỉ dựa vào lý thuyết khô khan. Sau khi đã có tư liệu, sẽ tạo cơ hội thảo luận và khám phá. Giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở: tác giả muốn thể hiện điều gì? hình ảnh nào gây ấn tượng nhất? màu sắc mang lại cảm xúc ra sao?… Qua thảo luận, học sinh rèn luyện khả năng phân tích, so sánh và bày tỏ quan điểm, góp phần phát triển năng lực giao tiếp thẩm mỹ.

Thứ hai, việc vận dụng gắn với thực hành sáng tạo. Trên cơ sở phân tích tranh, giáo viên khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức đã học vào sáng tác cá nhân. Ví dụ, sau khi tìm hiểu một bức tranh về đề tài lao động, các em có thể vẽ lại cảnh sinh hoạt quen thuộc tại địa phương mình. Như vậy, việc học không dừng ở tiếp nhận mà được chuyển hóa thành trải nghiệm sáng tạo. phát triển năng lực thẩm mỹ và phẩm chất cá nhân của các em. Tranh của các họa sĩ Việt Nam thường chứa đựng giá trị nhân văn, tinh thần yêu nước, lòng nhân ái. Khi tiếp nhận, học sinh không chỉ học cách nhìn cái đẹp mà còn hình thành tình cảm tích cực đối với con người và xã hội.

Thứ ba, liên hệ liên môn và thực tiễn. Qua tranh, giáo viên có thể kết nối với kiến thức Lịch sử, Ngữ văn, Âm nhạc, Giáo dục công dân… Điều này tạo nên cách tiếp cận tích hợp, giúp học sinh hiểu rằng nghệ thuật gắn liền với cuộc sống và các lĩnh vực tri thức khác.

4. Kết luận

Đưa tranh của các họa sĩ Việt Nam vào SGK và vận dụng trong dạy học Mỹ thuật ở bậc THCS là hướng đi phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, vừa góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh. Những tác phẩm nghệ thuật không chỉ là minh chứng sinh động cho cái đẹp, mà còn là cầu nối để thế hệ trẻ tiếp cận giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc. Từ đó để đạt hiệu quả, giáo viên cần lựa chọn tác phẩm phù hợp với nội dung bài học, khai thác theo hướng phát huy năng lực sáng tạo và tư duy phản biện của học sinh, tránh biến tranh thành hình ảnh minh họa đơn thuần. Khi tranh của họa sĩ Việt Nam được sử dụng đúng cách, môn Mỹ thuật ở THCS sẽ trở nên hấp dẫn, thiết thực hơn, đồng thời khẳng định vai trò của nghệ thuật trong sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ.

 

Hình ảnh minh họa bài tập của học sinh Trung học cơ sở

H1. Sản phẩm tranh dán trứng của học sinh Trần Hương Anh, lớp 8A8 Trường Trung học cơ sở Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội

H1. Sản phẩm tranh dán trứng của học sinh Phạm Hà Phương, lớp 8A1 Trường Trung học cơ sở Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội

H1. Sản phẩm tranh dán trứng của học sinh Đinh Thị Khánh Ngọc, lớp 8A8 Trường Trung học cơ sở Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội

H1. Sản phẩm tranh dán trứng của học sinh Nguyễn Diệp Chi, lớp 8A1 Trường Trung học cơ sở Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Hữu Châu (2011), Lý luận dạy học hiện đại, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
  2. Nguyễn Hữu Châu (2012), Phương pháp dạy học tích cực, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
  3. Nguyễn Quốc Chí & Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003), Những vấn đề cơ bản của lý luận dạy học hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  4. Phạm Thị Chỉnh (2008), Lịch sử Mĩ thuật Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  5. Trần Tiểu Lâm & Phạm Thị Chỉnh (2008), Giáo trình Mĩ thuật học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  6. Vũ Thị Minh Nguyệt (2018), Giáo dục Mĩ thuật trong trường trung học cơ sở theo phương pháp tích cực, Luận văn ThS., Trường Đại học Mĩ thuật Việt Nam, Hà Nội.
  7. Nguyễn Thị Nhung (Chủ biên), Nguyễn Tuấn Cường, Lê Thuý Quỳnh, Đàm Thị Hải Uyên & Trần Thị Vân (2017), Dạy Mĩ thuật theo định hướng phát triển năng lực lớp 6,7,8,9, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
  8. Nguyễn Minh Quang, Phạm Văn Tuyến (Đồng Chủ biên), Nguyễn Thị Hồng Thắm & Nguyễn Thị Đông (2021), Hướng dẫn dạy học môn nghệ thuật trung học cơ sở theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 phần Mĩ thuật, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  9. Nguyễn Quân (1987), Mĩ thuật Việt Nam, Nxb ngoại văn Hà Nội.
  10. Nguyễn Quốc Thông (2015), Tạo hình và cảm thụ nghệ thuật, Nxb Mĩ thuật, Hà Nội.