DI SẢN VĂN HÓA VÀ SỰ PHỤC HƯNG TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI CỦA ÁO NHẬT BÌNH
Trần Ngọc Diễm Hằng
Mỹ thuật ứng dụng
Áo Nhật Bình hiện nay không chỉ còn đơn thuần là một trang phục mang tính lịch sử, mà đã trở thành biểu tượng văn hóa sống động, kết tinh tinh hoa nghệ thuật và tư tưởng của cả một triều đại. Di sản quý giá này hiện đang dần vượt ra khỏi không gian bảo tàng để trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho nghệ thuật và thời trang đương đại, trở thành một nhịp cầu nối độc đáo giữa quá khứ vàng son với hiện tại, giữa truyền thống và tương lai.
Nguồn gốc của áo Nhật Bình bắt nguồn từ loại áo Phi phong của triều Minh, được triều Nguyễn tiếp thu và cải biến thành kiểu áo Phi phong đối khâm với những nét riêng độc đáo[1]. Điểm đặc biệt là áo có phần cổ thiết kế hình chữ nhật to bản, hai vạt được cố định bằng dây buộc, khi mặc vào thì phần trước ngực ghép lại thành hình chữ nhật nên mới có tên là áo Nhật Bình[5]. Khắp thân áo thường được trang trí lộng lẫy bằng các hoa văn dạng tròn như phượng ổ, loan ổ đan xen với hình hoa lá, chữ Phúc, chữ Thọ…được các nghệ nhân thêu, đính tinh xảo.
Một trong số những chiếc áo Nhật Bình có tính biểu trưng triều đại có thể kể đến áo Nhật Bình của Đoan Huy Hoàng thái hậu. Hệ thống đồ án trang trí trên áo Nhật Bình của Đoan Huy Hoàng thái hậu thể hiện sự phong phú và tinh xảo bậc nhất. Theo nghiên cứu của Lê Thị Hà (2025), số lượng loại hoa văn trang trí lên tới 15 loại: song phượng, phượng cuốn thư, phượng bay, hạc, rùa, hoa mẫu đơn, hoa cúc, hoa mai, hoa lan đất, đá lồng hình hoa lan đất, trúc, mây, hồi văn, mắt võng lục giác điểm hoa, và tam sơn thủy ba[5]. Tổng số lượng họa tiết trang trí là 141, chưa kể các cụm hoa văn trên cổ áo và gấu vạt áo.
Catalogue của nhà đấu giá giới thiệu chiếc áo của Đoan Huy hoàng thái hậu – Ảnh: CTV
Nhóm hoa văn các con vật linh thể hiện rõ nét quan niệm tâm linh của người Việt. Hoa văn chim phượng – linh vật đứng thứ tư trong Tứ linh – được bố trí trong tiga thế chính: Song phượng dalam bố cục hình tròn (31 hình), Phượng cuốn thư trên dải thùy lưu (4 hình), và Phượng xòe đuôi trên cổ áo (9 hình)[5]. Chim phượng biểu tượng cho sự tốt đẹp, sắc đẹp và đức hạnh của người phụ nữ, phù hợp với địa vị Hoàng thái hậu. Họa tiết rùa đội pho sách chữ Vạn, miệng phun mây được trang trí ở phần dưới gấu áo, kết hợp với đồ án tam sơn thủy ba thể hiện ước vọng trường thọ, vững bền[5]. Họa tiết chim hạc trắng đầu đỏ ngậm chuỗi vòng bay phía trên hình rùa tạo thành cặp biểu tượng “hạc – quy” truyền thống, biểu trưng cho sự thanh khiết và trường tồn[5].
Ảnh: Thái Lộc
Nhóm hoa văn tự nhiên tập trung ở các loài hoa lá thực vật, đặc biệt là hoa mẫu đơn và bộ Tứ quý (mai, trúc, cúc, lan). Hoa mẫu đơn có kích thước lớn thứ hai sau chim phượng, bao gồm 17 bông được phân bố đều trên thân và tay áo[5]. Theo Trần Thị Thanh Duy (2007), hoa mẫu đơn tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc cũng như là biểu trưng hình ảnh người phụ nữ cao quý thời bấy giờ[6]. Bộ Tứ quý mang giá trị tinh thần quý phái, đầy triết lý tâm linh theo truyền thống Nho giáo.
Các họa tiết sóng nước (thủy ba), cột thủy, mây vân xoắn dan tam sơn thủy ba tạo nên sự vận động hài hòa giữa trời dan đất. Đặc biệt, tam sơn thủy ba ở mép sườn áo và dưới gấu áo tạo thế vững chắc, đồng thời hình thành không gian linh thiêng[5]. Theo Vũ Huyền Trang (2022), đây không chỉ là sóng nước mà còn mang ý nghĩa khởi nguồn sự sống, sự luân chuyển không ngừng của vũ trụ[3].
Nhóm hoa văn hình học bao gồm họa tiết đan mắt lưới hình thoi (mắt võng), mắt lưới lục giác (kim quy) dan hồi văn. Các họa tiết này được sắp xếp tinh tế trên cổ áo, vừa tạo độ bền vững cho bố cục, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc[5]. Hoa văn hồi văn chạy liên tục quanh cổ áo thể hiện sự tuần hoàn vĩnh cửu của vũ trụ.
Ảnh: Thái Lộc
Trang phục Nhật Bình từng là biểu tượng quyền uy trong văn hóa của Hoàng tộc triều Nguyễn suốt gần 150 năm (1802-1945). Từ năm Gia Long thứ 6 (1807), triều Nguyễn đã quy định chi tiết về trang phục này cho hậu phi, công chúa, cung tần cả về màu sắc, chất liệu, hoa văn và phụ kiện đi kèm[2]. Áo Nhật Bình của hoàng hậu may bằng sa sợi vàng, trong khi áo của công chúa cùng cung tần may bằng sợi sa nhuộm màu theo quy định[6]. Màu sắc cũng được quy định nghiêm ngặt: màu vàng cho hoàng hậu, màu đỏ cho công chúa, màu xích đào cho nhị giai phi, màu tím cho tam giai tần, và màu tím nhạt cho tứ giai tần[6].
Về giá trị văn hóa, áo Nhật Bình thực sự là một tác phẩm nghệ thuật tổng hợp. Đây kết tinh của nghệ thuật dệt, nhuộm, thêu thùa cũng như hội họa trong thời kỳ đó[4]. Mỗi chi tiết đều ẩn chứa thông điệp văn hóa, triết lý sống cùng những ước vọng về quyền lực, sự bình an dan thịnh vượng. Theo Trần Minh Nhựt (2024), kỹ thuật thêu của các nghệ nhân Huế xưa đạt đến trình độ điêu luyện, mỗi đường thêu đều thể hiện sự tỉ mỉ và tinh xảo đầy tâm huyết của những người thợ lành nghề[4].
Trong bối cảnh đương đại, làn sóng “phục hưng văn hóa” trong giới trẻ Việt Nam đã thổi luồng sinh khí mới vào di sản này. Các nhà thiết kế không sao chép nguyên bản mà khéo léo cách điệu các yếu tố tinh hoa cho phù hợp xu hướng hiện đại[3]. Phần cổ áo được thu nhỏ, biến tấu thành cổ áo sơ mi, áo vest hay đầm dạ hội thanh lịch. Các họa tiết long, phượng, hoa sen được in hiện đại, thêu máy và dập nổi trên các chất liệu đa dạng[4]. Màu sắc cũng có sự biến đổi đáng kể, không còn gò bó như quy tắc cung đình xưa, các nhà thiết kế sử dụng màu sắc linh động hơn, từ những tone màu truyền thống đến các màu pastel nhẹ nhàng.
Việc ứng dụng cảm hứng từ Nhật Bình vào thời trang đương đại mang ý nghĩa “bảo tồn sống” hiệu quả. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nước đều phát triển thời trang theo hướng bản địa hóa để nâng cao giá trị truyền thống, đây là cách khẳng định bản sắc mạnh mẽ, cho thấy thời trang Việt có thể tạo xu hướng riêng dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc[3]. Hơn nữa, xu hướng này mở ra cơ hội phát triển cho nhà thiết kế, thương hiệu nội địa dan góp phần hồi sinh làng nghề thủ công truyền thống. Các ngành nghề và sản phẩm truyền thống như vải dệt thủ công, những người nghệ nhân thêu có tay nghề cao… có cơ hội được truyền nghề, phục hồi và phát triển.
Tuy nhiên, quá trình sáng tạo cũng đặt ra thách thức về cân bằng giữa “cách tân” và “tôn trọng” nguyên bản. Theo Phan Thanh Hải (2016), cần am hiểu sâu sắc về văn hóa cũng như sáng tạo có trách nhiệm để tránh làm mất ý nghĩa thiêng liêng của di sản[2]. Việc cách điệu quá mức có thể làm biến dạng hoàn toàn ý nghĩa văn hóa vốn có của trang phục truyền thống.
Tương lai của xu hướng bản địa hóa phụ thuộc vào sự hợp tác giữa nhà nghiên cứu văn hóa, bảo tàng, nghệ nhân dan nhà thiết kế. Cần có dự án nghiên cứu bài bản và không gian đối thoại giữa những nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa cùng các nhà thiết kế, sáng tạo nghệ thuật để tìm ra hướng đi phù hợp[2]. Chỉ có sự kết hợp hài hòa giữa am hiểu truyền thống lẫn sáng tạo hiện đại mới có thể đưa di sản văn hóa đến với công chúng một cách trọn vẹn nhất.
Như vậy, hành trình từ cung đình cố đô ra phố phường hiện đại của áo Nhật Bình là minh chứng sinh động cho sự kết nối giữa quá khứ đan xen hiện tại. Sự phát triển này không chỉ góp phần bảo tồn di sản mà còn khẳng định sức sáng tạo của thời trang Việt Nam trong hành trình hội nhập quốc tế, mang theo hành trang văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Áo Nhật Bình không chỉ là trang phục mà còn là thông điệp văn hóa sống động, kết nối các thế hệ để khẳng định bản sắc Việt giữa dòng chảy hội nhập toàn cầu.
Đặc biệt, sự phục hưng của áo Nhật Bình trong đời sống đương đại còn thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng. Các buổi trình diễn thời trang lấy cảm hứng từ di sản này ngày càng phổ biến, thu hút sự quan tâm của công chúng. Các nhà thiết kế trẻ đã khéo léo kết hợp yếu tố truyền thống với các phong cách hiện đại, tạo ra những sản phẩm vừa mang hồn cốt dân tộc vừa phù hợp với xu hướng thời trang quốc tế. Không chỉ dừng lại ở trang phục, các phụ kiện như túi xách, giày dép, trang sức lấy cảm hứng từ họa tiết Nhật Bình cũng được sáng tạo, góp phần đưa di sản đến gần hơn với công chúng.
Các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị áo Nhật Bình có thể được đẩy mạnh bởi nhiều hình thức. Như workshop, triển lãm chuyên đề về trang phục cung đình được tổ chức thường xuyên, tạo cơ hội cho công chúng tìm hiểu, tiếp cận và trải nghiệm trang phục truyền thống. Các nghệ nhân làng nghề thủ công truyền thống được khuyến khích hỗ trợ để quảng bá, duy trì và phát triển kỹ thuật thêu, dệt độc đáo. Sự hợp tác giữa các bảo tàng, nhà nghiên cứu với cộng đồng doanh nghiệp, nhà thiết kế đã tạo ra một hệ sinh thái đa dạng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Trong giáo dục, áo Nhật Bình đã được đưa vào chương trình cũng như các tài liệu như sách, báo chí về thời trang, văn hóa, nghệ thuật. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về trang phục cung đình ngày càng được quan tâm đầu tư. Sự quan tâm của giới trẻ đối với di sản văn hóa dân tộc thể hiện qua các câu lạc bộ nghiên cứu về lịch sử, nhóm bạn cùng sở thích tìm hiểu về cổ phục Việt Nam. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần tạo nên một làn sóng phục hưng văn hóa mạnh mẽ, trong đó áo Nhật Bình giữ một vị trí quan trọng như một cầu nối để đưa quần chúng nhân dân tiếp cận với văn hóa cung đình, bản sắc truyền thống tiếp tục truyền thừa và phát triển ngày một vững vàng.
Tài liệu tham khảo:
- Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, NXB Nhã Nam – NXB Thế giới
- Phan Thanh Hải (2016) Di Sản Văn Hóa Cung Đình Thời Nguyễn, NXB Thuận Hóa
- Vũ Huyền Trang (2022), Trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, NXB Thế Giới
- Trần Minh Nhựt (2024), Nghệ Thuật Minh Họa Áo Mũ Thời Nguyễn Đầu Thế Kỷ XX, NXB Hà Nội
- Lê Thị Hà (2025), Hoa văn trang trí trên áo Nhật Bình của Đoan Huy Hoàng thái hậu triều Nguyễn (1802-1945), Tạp chí Văn hóa Nghệ Thuật
- Trần Thị Thanh Duy (2007), Áo đại triều của Hoàng Thái Hậu thời Nguyễn, Chuyên san Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế