Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương logo

VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT TRIỂN TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC THƯỜNG THỨC ÂM NHẠC CHO HỌC SINH LỚP 6 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ HÀ HỒI, XÃ HỒNG VÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 

Nguyễn Thị Kim Ly

Học viên K20 – Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc

1. Mở đầu

Trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay, việc vận dụng các phương pháp dạy học phát triển tích cực là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, giúp học sinh (HS) phát triển năng lực, phẩm chất và tư duy sáng tạo. Tại Trường Trung học cơ sở (THCS) Hà Hồi có địa chỉ tại xã Hồng Vân, thành phố Hà Nội, công tác dạy học Âm nhạc luôn được chú trọng với mục tiêu trang bị kiến thức, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ, tình yêu nghệ thuật cho HS. Trong chương trình môn Âm nhạc, nội dung Thường thức Âm nhạc giữ vai trò quan trọng trong việc giúp HS hiểu biết về các nhạc sĩ, tác phẩm, thể loại và bối cảnh lịch sử của âm nhạc, GV cần vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS. Cụ thể, việc tập trung vào hợp tác và tương tác giúp HS được trao đổi, thảo luận, chia sẻ cảm nhận âm nhạc một cách tự nhiên; dạy học kết hợp kiến thức và thực tiễn. Đồng thời, tổ chức lớp theo nhóm khuyến khích tinh thần làm việc tập thể; hình thành thói quen tự học và dạy học kết hợp đánh giá giúp GV kịp thời điều chỉnh quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả tiếp thu của HS. Bài viết này xin trình bày nội dung vận dụng các phương pháp dạy học phát triển tích cực trong dạy học thường thức âm nhạc cho HS lớp 6 Trường THCS Hà Hồi, xã Hồng Vân, thành phố Hà Nội.

2. Nội dung

2.1. Tập trung vào hợp tác và tương tác

Trong dạy học truyền thống, yếu tố hợp tác và tương tác giữa GV và HS, cũng như giữa HS với nhau, chủ yếu dừng lại ở mức hỗ trợ quá trình truyền thụ tri thức, tức là GV giảng, HS lắng nghe, sau đó trao đổi hoặc trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, trong dạy học phát triển năng lực, hợp tác và tương tác được đặt ở một bình diện mới: GV không còn là người “truyền đạt” tri thức mà là người tổ chức, định hướng và kích thích hoạt động học tập, còn HS trở thành chủ thể tích cực, chủ động kiến tạo tri thức qua các hoạt động trao đổi, khám phá, phản hồi và sáng tạo.

Để triển khai hiệu quả, GV có thể thiết kế các hoạt động hợp tác đa dạng như thảo luận nhóm, dự án học tập, đóng vai, trình bày sơ đồ tư duy hoặc chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Chẳng hạn, khi dạy chủ đề nhạc sĩ Đỗ Nhuận, lớp được chia thành các nhóm nhỏ: nhóm 1 tìm hiểu tiểu sử; nhóm 2 nghiên cứu các ca khúc tiêu biểu như Giải phóng Điện Biên, Hành quân xa; nhóm 3 phân tích phong cách sáng tác. Sau đó, các nhóm trình bày kết quả bằng sơ đồ tư duy, thuyết trình hoặc video ngắn. Quá trình đó giúp HS vừa chủ động tìm hiểu, vừa rèn kỹ năng diễn đạt, phản biện và hợp tác.

2.2. Dạy học kết hợp kiến thức và thực tiễn

Trong mạch nội dung Thường thức âm nhạc lớp 6, phương pháp kết hợp kiến thức và thực tiễn có thể được triển khai hiệu quả qua nhiều chủ đề gắn liền với các nhân vật, nhạc cụ và thể loại âm nhạc tiêu biểu. Ví dụ, khi dạy về nhạc sĩ Cao Văn Lầu, GV không chỉ giới thiệu tiểu sử và bài Dạ cổ hoài lang, mà còn yêu cầu các em tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của bài hát và sự ảnh hưởng của nó đến nghệ thuật cải lương miền Nam. Qua việc phân tích lời ca, HS sẽ thấy được tâm sự nhớ thương, nỗi khắc khoải của con người thời loạn lạc, từ đó rút ra nhận định về giá trị lịch sử – xã hội của tác phẩm trong bối cảnh đầu thế kỷ XX. Việc đưa yếu tố văn hóa và lịch sử vào bài học giúp HS hiểu âm nhạc không tách rời đời sống, mà luôn phản ánh tâm tư, tình cảm của con người trong thời đại cụ thể. Cách tiếp cận này giúp bài học trở nên gần gũi và giàu giá trị nhân văn hơn, đồng thời khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức âm nhạc vào thực tế, nuôi dưỡng tình yêu nghệ thuật và ý thức gìn giữ giá trị văn hóa dân tộc.

Không dừng lại ở hoạt động lớp học, phương pháp kết hợp kiến thức và thực tiễn còn có thể mở rộng qua hình thức dự án học tập. Ví dụ, sau khi học các chủ đề về nhạc sĩ Đỗ Nhuận hay Hoàng Việt, HS có thể giới thiệu chân dung nhạc sĩ và những ca khúc tiêu biểu cho bạn bè, gia đình. Thông qua đó, HS không chỉ củng cố kiến thức đã học mà còn lan tỏa giá trị âm nhạc tới cộng đồng.

2.3. Tổ chức lớp theo nhóm

Trong dạy học mạch nội dung Thường thức âm nhạc ở lớp 6, GV có thể vận dụng hoạt động nhóm theo nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với nội dung từng chủ đề. Chẳng hạn, ở chủ đề 8 nội dung thường thức âm nhạc về nhạc sĩ Hoàng Việt, GV chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm tìm hiểu một khía cạnh trong cuộc đời và sự nghiệp của ông: nhóm 1 thu thập thông tin tiểu sử và bối cảnh lịch sử; nhóm 2 phân tích phong cách sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu như Nhạc rừng; nhóm 3 trình bày ảnh hưởng của Hoàng Việt đối với nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Các nhóm sau đó trình bày kết quả bằng hình thức thuyết trình hoặc sơ đồ tư duy trực quan. Qua đó, HS không chỉ tiếp cận thông tin một cách chủ động mà còn rèn luyện kỹ năng chọn lọc, tổng hợp và trình bày kiến thức.

Việc tổ chức lớp theo nhóm không chỉ nhằm mục đích chia sẻ nhiệm vụ mà còn giúp mỗi HS phát huy vai trò riêng: người tìm kiếm thông tin, người thiết kế hình ảnh, người thuyết trình, người phụ trách kỹ thuật… Mỗi thành viên trong nhóm đều có cơ hội thể hiện năng lực và cá tính riêng, từ đó hình thành trách nhiệm cá nhân trong tập thể và tinh thần hợp tác cùng phát triển. Đây là một trong những yêu cầu cốt lõi của phương pháp dạy học phát triển năng lực trong giáo dục hiện đại.

2.4. Hình thành thói quen tự học

Trong dạy học Thường thức âm nhạc lớp 6, GV có thể tạo ra nhiều hình thức khuyến khích tự học phù hợp với từng chủ đề. Ví dụ, sau khi học về nhạc sĩ Wolfgang Amadeus Mozart, thay vì yêu cầu HS chỉ ghi nhớ nội dung trong sách, GV có thể giao nhiệm vụ tìm hiểu thêm về một tác phẩm tiêu biểu chưa có trong bài học – chẳng hạn như bản Rondo a La Turka. HS có thể tự nghe tác phẩm, ghi lại cảm xúc của mình trong một đoạn văn ngắn hoặc trình bày kết quả dưới dạng nhật ký học tập, video cảm nhận, hoặc tranh vẽ theo chủ đề. Qua hoạt động này, HS không chỉ mở rộng kiến thức mà còn được rèn luyện kỹ năng tìm kiếm thông tin, kỹ năng cảm thụ nghệ thuật và khả năng thể hiện cá nhân.

Một hình thức tự học hiệu quả khác là đọc mở rộng và liên hệ thực tế. Chẳng hạn, khi học về nhạc sĩ Đỗ Nhuận và các tác phẩm của ông, GV có thể gợi ý HS tìm thêm một bài hát cùng thời kỳ, tìm hiểu tác giả và hoàn cảnh ra đời, sau đó trình bày so sánh với tác phẩm đã học. Qua đó, HS được rèn luyện tư duy liên kết, biết mở rộng tri thức và vận dụng các phương pháp học tập độc lập. Điều này đặc biệt hữu ích trong việc hình thành tinh thần trách nhiệm với việc học của bản thân và nâng cao hiệu quả tiếp thu.

Để hỗ trợ quá trình tự học, GV cũng cần xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở, tài liệu tham khảo phù hợp lứa tuổi và hướng dẫn cách tổ chức hoạt động học cá nhân. Có thể thiết kế các phiếu học tập cá nhân, nhật ký cảm nhận âm nhạc, bản đồ tư duy hay ngân hàng câu hỏi theo từng chủ đề. Những công cụ này không chỉ giúp HS biết cách tự định hướng mà còn tạo điều kiện để các em tự đánh giá và điều chỉnh quá trình học của chính mình một cách khoa học.

2.5. Dạy học kết hợp đánh giá

Ứng dụng phương pháp này vào thực tiễn bài học Thường thức âm nhạc lớp 6, GV có thể thiết kế các hoạt động đánh giá gắn liền với từng chủ đề cụ thể. Ví dụ, khi dạy về nhạc sĩ Cao Văn Lầu, thay vì chỉ yêu cầu HS ghi nhớ tiểu sử và hoàn cảnh sáng tác Dạ cổ hoài lang, GV có thể tổ chức một bài kiểm tra theo hình thức dự án: HS làm video ngắn thuyết minh về bài hát, nêu cảm nhận cá nhân và ý nghĩa của tác phẩm trong bối cảnh xã hội Nam Bộ đầu thế kỷ XX. GV vừa có thể đánh giá năng lực cảm thụ âm nhạc, khả năng trình bày, vừa quan sát được thái độ học tập và mức độ đầu tư sáng tạo của HS.

Một ví dụ khác, khi dạy về nhạc cụ dân tộc như đàn tranh và đàn đáy (chủ đề 3), GV giao cho HS lập bảng so sánh đặc điểm hai nhạc cụ theo cấu tạo, âm sắc và vai trò biểu diễn. Các nhóm trình bày kết quả hoặc tạo “góc trưng bày” kèm hình ảnh, tư liệu minh họa. GV đánh giá dựa trên tiêu chí: độ chính xác, khả năng hợp tác, kỹ năng thuyết trình và tính sáng tạo. HS đồng thời thực hiện tự đánh giá hoặc đánh giá chéo để rèn luyện khả năng phản hồi và tự điều chỉnh quá trình học tập.

Ngoài các hình thức đánh giá trên, GV cũng nên thiết kế hệ thống câu hỏi mở nhằm khơi gợi tư duy và đánh giá kỹ năng phân tích – so sánh. Ví dụ: “Hãy nêu điểm giống và khác nhau giữa nhạc sĩ Đỗ Nhuận và Hoàng Việt về phong cách sáng tác”. Điều đó giúp HS tư duy mở rộng, liên hệ thực tiễn và thể hiện quan điểm cá nhân – từ đó GV đánh giá được chiều sâu hiểu biết và khả năng vận dụng của HS, hình thành năng lực tự học, tư duy phản biện và cảm thụ âm nhạc sáng tạo cho HS.

Bằng việc linh hoạt trong lựa chọn phương pháp, đa dạng hóa hình thức và lấy HS làm trung tâm, GV có thể không ngừng nâng cao chất lượng dạy học, đồng thời tạo ra một môi trường giáo dục âm nhạc cởi mở, dân chủ và khơi dậy niềm yêu thích học tập âm nhạc trong mỗi HS. Đây chính là một hướng đi cần thiết và phù hợp trong bối cảnh giáo dục hiện đại, hướng tới phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học.

3. Kết luận

Việc vận dụng các phương pháp dạy học phát triển tích cực trong dạy học Thường thức Âm nhạc cho HS lớp 6 Trường THCS Hà Hồi, xã Hồng Vân, thành phố Hà Nội không chỉ góp phần đổi mới cách tiếp cận nội dung môn học mà còn giúp nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện. Thực tế cho thấy, khi HS được tham gia vào quá trình học một cách chủ động, được khuyến khích tư duy, sáng tạo, hợp tác và tự đánh giá, các em trở nên hứng thú, tự tin và phát huy tốt hơn năng lực cá nhân. Thông qua các hoạt động nhóm, dự án học tập, thảo luận, trình bày và trải nghiệm, học sinh không chỉ nắm vững kiến thức về nhạc sĩ, tác phẩm, thể loại âm nhạc mà còn biết cảm nhận, phân tích và trân trọng giá trị thẩm mỹ của âm nhạc trong đời sống. Đây là hướng tiếp cận phù hợp với tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông 2018, đặt người học vào trung tâm và đề cao năng lực tự học, sáng tạo.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Âm nhạc, Hà Nội.
  2. Nguyễn Thị Tố Mai (2024), Phương pháp dạy học theo phát triển năng lực, Tài liệu ban hành nội bộ Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, Hà Nội.
  3. Phạm Vũ Oanh (2024), Dạy học thường thức âm nhạc cho học sinh Trường Tiểu học Lý Công Uẩn, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc, Trường ĐHSP Nghệ thuật TW, Hà Nội.
  4. Đặng Văn Phúc (2022), Dạy học cảm thụ âm nhạc thông qua phân môn học hát cho học sinh khối lớp 7 tại Trường Trung học cơ sở Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc, Trường ĐHSP Nghệ thuật TW, Hà Nội.
  5. Lê Anh Tuấn (2010), Phương pháp dạy học âm nhạc ở trường Tiểu học và THCS, Nxb Đại học Sư phạm.
  6. Đoàn Thanh Vân (2018), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn Âm nhạc thường thức khối Trung học cơ sở tại trường Thực hành Sư phạm – Đại học Hạ Long, Luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.