VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH TRONG TRANH CỔ ĐỘNG CHÍNH TRỊ VÀO THIẾT KẾ POSTER CHO TRIỂN LÃM MỸ THUẬT CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO VIỆT NAM
Vương Đình Thắng Thái
Học viên K3 – Mỹ thuật ứng dụng
1. Mở đầu
Tranh cổ động chính trị là một hình thức truyền thông thị giác nhằm tác động đến nhận thức và thái độ xã hội, sử dụng hình ảnh kết hợp với khẩu hiệu ngắn gọn để định hướng tư tưởng, khơi dậy cảm xúc và thúc đẩy hành động của quần chúng theo những mục tiêu chính trị – xã hội nhất định. Khác với hình thức nghệ thuật thuần túy, tranh cổ động mang tính mục đích rõ ràng, đề cao tính định hướng, tuyên truyền và huy động sức mạnh tập thể. Với khả năng truyền tải thông điệp nhanh, trực tiếp, dễ ghi nhớ và tạo hiệu ứng lan tỏa rộng, tranh cổ động giữ vai trò như công cụ truyền thông chiến lược của các phong trào cách mạng, nhiệm vụ chính trị và vận động xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Mỗi tác phẩm tranh cổ động chính trị đều phải thể hiện mục tiêu rõ ràng, dứt khoát, đảm bảo không lệch khỏi đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
2. Nội dung
2.1. Nghệ thuật tạo hình trong tranh Cổ động Chính trị
2.1.1. Nội dung ý tưởng
Trong tiến trình phát triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại, tranh cổ động chính trị giữ vị trí như một loại hình nghệ thuật thị giác đặc thù, gắn chặt với lịch sử đấu tranh cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Khác với các hình thức sáng tạo thuần túy chỉ đề cao giá trị thẩm mỹ, tranh cổ động chính trị là sự kết hợp chặt chẽ giữa mỹ thuật và tư tưởng, mang tính định hướng xã hội rõ nét. Nội dung tư tưởng trong tranh không chỉ dừng lại ở việc phản ánh hiện thực, mà còn trực tiếp truyền tải thông điệp chính trị, thúc đẩy tinh thần hành động và củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân. Những chủ đề thường xuyên xuất hiện trong tranh cổ động chính trị Việt Nam bao gồm lòng yêu nước, khối đại đoàn kết toàn dân, ý chí tự lực – tự cường, tinh thần lao động sản xuất, bảo vệ chủ quyền dân tộc và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, nội dung tư tưởng của tranh cổ động luôn phản ánh nhiệm vụ chính trị trung tâm của đất nước. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hình tượng người chiến sĩ, nhân dân kháng chiến, hậu phương – tiền tuyến là chủ đạo. Bước vào thời kỳ xây dựng xã hội mới và công cuộc đổi mới, tranh cổ động chuyển hướng đề cao phát triển kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa – giáo dục và hội nhập quốc tế. Nhờ khai thác hiệu quả sức mạnh biểu tượng, tranh cổ động chính trị đã góp phần duy trì tinh thần thời đại, cổ vũ phong trào cách mạng và định hướng dư luận xã hội.
2.1.2. Phong cách tạo hình
Thông qua việc vận dụng các quy luật thị giác cùng những yếu tố tạo hình như ánh sáng, sắc độ, tỷ lệ lớn – nhỏ hay khoảng cách, người nghệ sĩ có thể kiến tạo nên những hình thể phù hợp với ý tưởng sáng tạo. Hình thể có thể bắt nguồn từ tự nhiên như cây cối, động vật, con người, hoặc từ các sáng tạo mang tính khối và những đồ vật do con người chế tác. Về cơ bản, hình thể được xác định trên nền tảng toàn khối, bao gồm ba chiều: dài, rộng và sâu, đồng thời có cấu trúc và trạng thái gần gũi với khái niệm hình dáng. Trong biểu đạt nghệ thuật, những vấn đề mang tính tư duy trừu tượng, khái quát thường được thể hiện qua các ấn hiệu và biểu tượng giàu tính ước lệ. Ngược lại, những nội dung phổ biến, hướng đến đông đảo công chúng, thường sử dụng hình ảnh rõ ràng, dễ hiểu và dễ nhận biết.
Trong tranh cổ động, hình tượng là yếu tố trung tâm quyết định hiệu quả truyền đạt và giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Nó tạo nên ấn tượng thị giác mạnh mẽ, dễ ghi nhớ và giúp công chúng nhận diện nội dung ngay từ cái nhìn đầu tiên. Xét về vai trò trong bố cục, hình ảnh thường được tổ chức theo hai cấp độ: hình ảnh chính và hình ảnh phụ. Hình ảnh chính giữ vị trí chủ đạo, có diện tích lớn và sắc độ nổi bật nhằm truyền tải trực tiếp thông điệp tư tưởng. Ngược lại, hình ảnh phụ được xử lý giản lược, diện tích nhỏ hơn và sắc độ nhẹ hơn, chỉ giữ vai trò hỗ trợ, làm rõ hoặc nhấn mạnh chủ đề mà không gây phân tán thị giác. Tương quan chính – phụ nếu thiếu rạch ròi sẽ dẫn đến bố cục rườm rà, dàn trải và giảm hiệu quả truyền thông. Do đó, tranh cổ động đòi hỏi sự cân đối giữa các yếu tố tạo hình như hình – nền, đậm – nhạt, chi tiết – khoảng trống, đồng thời phải đảm bảo sự hài hòa giữa hình ảnh và chữ khẩu hiệu trong tổng thể.
2.1.3. Ngôn ngữ tạo hình
Ngôn ngữ tạo hình của tranh cổ động chính trị Việt Nam được xây dựng trên hệ thống biểu đạt thị giác mang tính khái quát, trực tiếp và dễ tiếp nhận, bao gồm các yếu tố cơ bản như chữ, đường nét, hình khối, màu sắc và không gian.
Chữ: không chỉ mang chức năng truyền đạt khẩu hiệu hay thông điệp mà còn tham gia vào bố cục, tạo nhịp điệu thị giác.
Đường nét: dứt khoát, khỏe khoắn, loại bỏ chi tiết thừa, tập trung vào đường viền chính của hình tượng để tạo nên những mảng hình chắc khỏe, có nhịp điệu và mang tính khẳng định cao, góp phần nhấn mạnh nội dung và tăng sức biểu cảm.
Hình khối: giản lược nhưng chắc chắn, mang tính khái quát cao giúp tập trung vào chủ đề trung tâm, dễ nhận biết từ xa.
Màu sắc: sử dụng theo mảng lớn, tương phản mạnh, tạo hiệu quả tuyên truyền trực quan và khơi gợi cảm xúc mạnh mẽ.
Không gian: thường sử dụng không gian phẳng và ước lệ nhằm làm nổi bật chủ thể, tránh phân tán thị giác.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố này tạo nên phong cách thị giác đặc trưng của tranh cổ động chính trị: cô đọng, rõ ràng, mạnh mẽ và hiệu quả trong truyền thông tư tưởng.
2.2. Vận dụng nghệ thuật tạo hình trong tranh Cổ động Chính trị vào thiết kế Poster cho triển lãm mỹ thuật chủ đề Biển đảo Việt Nam
Xác định hình tượng chính
Trong định hướng thiết kế đồ họa cho sự kiện triển lãm mỹ thuật chủ đề Biển đảo Việt Nam, việc xác định hệ thống hình tượng chủ đạo là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm tính nhất quán về tư tưởng và hiệu quả truyền thông thị giác. Trên cơ sở kế thừa ngôn ngữ tạo hình của tranh cổ động chính trị Việt Nam, hình tượng chiến sĩ hải quân là hình ảnh mang giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa biểu trưng sâu sắc đối với chủ đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Hình tượng chiến sĩ hải quân đại diện cho sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, lòng quả cảm, tinh thần kỷ luật và ý chí kiên cường của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hình ảnh người chiến sĩ được thể hiện với dáng đứng vững chắc, tư thế hướng ra biển, tay nắm chặt súng, vừa mang tính hiện thực vừa mang tính biểu tượng. Sự xuất hiện của hình tượng này không chỉ khẳng định vai trò của lực lượng hải quân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo mà còn tạo cảm xúc tin tưởng, tự hào cho người xem. Bố cục poster theo kiểu phân tầng: nền sau là biển đảo – Trường Sa, Hoàng Sa; trung cảnh là hình tượng cột mốc chủ quyền; tiền cảnh là nhân vật và khẩu hiệu sự kiện. Cách xử lý này tạo chiều sâu không gian nhưng vẫn giữ đặc trưng của tranh cổ động là ưu tiên tính rõ ràng, trực diện. Hướng nhìn của nhân vật kết hợp với hướng chéo của vũ khí tạo thành trục thị giác mạnh, dẫn dắt người xem tập trung vào thông tin chính. Ngoài ra, việc phối hợp hài hòa giữa hình và chữ cho thấy sự tiếp nối tinh thần bố cục cổ động truyền thống – trong đó chữ không chỉ mang thông tin ngôn ngữ mà còn là thành phần tạo hình quan trọng
Màu sắc chủ đạo
Trong các tác phẩm về đề tài biển đảo, màu xanh biển và xanh da trời xuất hiện như một yếu tố nhận diện đặc trưng, vừa gợi không gian rộng lớn, vừa biểu trưng cho hòa bình, hy vọng và sự vững bền của chủ quyền Tổ quốc. Màu đỏ – biểu tượng của Đảng, của cách mạng – thường được đặt ở vị trí trung tâm hoặc nền chính, tạo điểm nhấn thị giác và khẳng định vai trò lãnh đạo, tinh thần bất khuất của dân tộc. Sự phối hợp hài hòa giữa các mảng màu đậm – nhạt, nóng – lạnh giúp bố cục tranh trở nên cân đối, đồng thời dẫn dắt ánh nhìn người xem hướng về thông điệp cốt lõi.
Màu sắc trong poster sử dụng tương phản nóng – lạnh mạnh mẽ: màu xanh biển sâu kết hợp đỏ – vàng rực gợi liên tưởng trực tiếp tới hình tượng Tổ quốc và màu cờ Tổ quốc. Bảng màu mang tính biểu tượng cao, đồng nhất với mỹ thuật cổ động Việt Nam vốn chú trọng tính tư tưởng của màu sắc hơn là diễn tả hiện thực tự nhiên. Gam màu chính gồm: xanh lam (biển, hòa bình), đỏ (sức mạnh, lý tưởng), vàng (khí phách dân tộc), kết hợp cùng các sắc trung tính để cân bằng. Sự phối hợp màu mang tính khái quát, mảng lớn, ít chuyển sắc, giúp thông điệp dễ ghi nhớ, tăng hiệu quả tuyên truyền thị giác.
Chữ
Hệ thống chữ trong poster được thiết kế theo trật tự thị giác rõ ràng: dòng tiêu đề “Biển Đảo Việt Nam” được tạo dựng kiểu chữ khối mạnh mẽ, nhấn nhá bằng hiệu ứng phân tầng ba màu đỏ – vàng, vừa mang yếu tố trang trí, vừa làm tăng tính biểu tượng dân tộc. Các thông tin bổ trợ như thời gian, địa điểm, tổ chức được sắp xếp hợp lý, kế thừa bố cục thông tin quen thuộc của mỹ thuật cổ động, đảm bảo hiệu quả truyền đạt nhanh.
3. Kết luận
Nghệ thuật tạo hình trong tranh cổ động chính trị Việt Nam là sự kết hợp giữa tư tưởng, thẩm mỹ và tính định hướng xã hội, thể hiện qua cách tổ chức hình tượng, bố cục, màu sắc và chữ mang tính khái quát cao, rõ ràng và mạnh mẽ. Với đặc trưng sử dụng các mảng hình lớn, tương phản màu sắc mạnh, đường nét dứt khoát và hình tượng mang tính biểu trưng, tranh cổ động không chỉ hướng tới giá trị thị giác mà còn tạo sức thuyết phục bằng ngôn ngữ biểu cảm giàu tính biểu tượng. Chính nhờ đặc điểm đó, loại hình nghệ thuật này đã trở thành công cụ truyền thông tư tưởng hiệu quả, góp phần hình thành bản sắc mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Việc vận dụng nghệ thuật tạo hình của tranh cổ động chính trị vào thiết kế poster cho triển lãm mỹ thuật chủ đề Biển đảo Việt Nam cho thấy sự kết nối hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa giá trị tư tưởng và ngôn ngữ thị giác đương đại. Thông qua việc khai thác hệ thống hình tượng tiêu biểu như người chiến sĩ hải quân, cột mốc chủ quyền, lá cờ Tổ quốc cùng bảng màu mang tính biểu tượng cao, poster không chỉ truyền tải thông điệp rõ ràng, xúc động mà còn khơi gợi niềm tự hào, ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo trong lòng công chúng. Sự kế thừa có chọn lọc tinh thần cổ động truyền thống giúp thiết kế vừa giữ được tính tư tưởng, vừa đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ và truyền thông trong bối cảnh hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trần Thị Biển (2022), “Tranh cổ động Việt Nam giai đoạn 1975–1986”, Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Mở Hà Nội (số 93), tr.1-8.
- Đào Hữu Đạt (2018), Đề tài biển đảo trong hội họa Việt Nam (Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hội họa, Đại học Mỹ Thuật Việt Nam)
- Nguyễn Thành Nam (2022), “Nghệ thuật đồ họa chữ biểu hiện hình tượng trong tranh cổ động Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975”, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật (Số 38), tr.52-57.
- Nguyễn Quân (2004), Ngôn ngữ của hình và màu sắc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Huỳnh Hữu Ủy (1999), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Văn Nghệ.