Nội san

Nét đẹp trong phong tục văn hóa của người Nùng ở xã Bảo Ái, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái

07 Tháng Ba 2016

Nguyễn Thị Na[*]

 

Yên Bái là một tỉnh miền núi Tây Bắc của tổ quốc, với nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống như: Kinh, Dao, Tày, Nùng, Cao Lan… đã tạo nên một bức tranh văn hóa nhiều màu sắc cho tỉnh Yên Bái nói riêng và cho đất nước Việt Nam nói chung. Trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa văn hóa đang đe dọa sự tồn tại những nét văn hóa dân tộc độc đáo. Do đó, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc hay những đặc trưng văn hóa tộc người mang một ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ gìn tính đa dạng và sự đa sắc màu của văn hóa quốc gia và văn hóa thế giới. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa mỗi dân tộc cũng như của mỗi quốc gia là một vấn đề cấp thiết và mang tính chiến lược để phát triển lâu dài cho mỗi địa phương cũng như cho mỗi quốc gia.

Với đặc điểm chung là một tỉnh thuộc vùng cao còn nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế cũng như mọi mặt đời sống của nhân dân, nhưng trong những năm qua cán bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái  luôn cố gắng phấn đấu làm thay đổi cục diện bộ mặt đời sống của nhân dân ngày một khởi sắc hơn trên mọi mặt của đời sống xã hội. Ở Yên Bái, trong số các dân tộc cùng sinh sống thì dân tộc Nùng chiếm số lượng khá đông, tập trung chủ yếu ở hai huyện Lục Yên và Yên Bình. Qua nghiên cứu của chúng tôi thì đồng bào Nùng sống ở xã Bảo Ái thuộc huyện Yên Bình còn mang nhiều yếu tố văn hóa truyền thống đặc sắc trong đời sống sinh hoạt của mình. Một trong những nét đặc sắc ấy phải kể đến những nghi lễ quanh vòng đời người như: tục lệ liên quan đến trẻ nhỏ và sinh nở, tục lệ hôn nhân, tục lệ ma chay và một số tục thờ cúng khác của đồng bào.

Giống như một số dân tộc khác, đồng bào Nùng ở Bảo Ái sống xen kẽ cùng các dân tộc khác nhưng vẫn giữ gìn được một phần văn hóa truyền thống của mình. Trong những phong tục quanh vòng đời người đồng bào Nùng có nhiều những luật tục, cách hành lễ và những kiêng kỵ rất đặc biệt.

Nói đến những phong tục truyền thống của đồng bào Nùng ở Bảo Ái phải kể đến những phong tục liên quan đến trẻ nhỏ. Họ quan niệm nuôi dạy một đứa trẻ là cả một trọng trách lớn của cha mẹ, vì đứa trẻ là bắt đầu của một cuộc đời con người, chính vì vậy trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ đồng bào có những tập tục và nghi lễ mà đến nay hầu như vẫn còn được gìn giữ. Đồng bào Nùng có tục lệ rất đặc biệt trong quá trình mang thai và chăm sóc trẻ nhỏ. Những kiêng kỵ của họ được thực hiện một cách nghiêm túc và tự giác từ mỗi cá nhân, gia đình chứ không phải những luật tục bắt buộc mọi người tham gia. Tuy vây, vì là những phong tục có từ lâu đời và người dân quan niệm có thờ có thiêng, có kiêng có lành nên họ cứ thực hiện phong tục truyền thống từ đời này sang đời khác với sụ thành tâm nhất của mình. Khi người phụ nữ mang thai họ kiêng không được mang các loại lá cây tươi xanh vào nhà hoặc để dưới gầm sàn đề phòng sẩy thai; kiêng không được sửa nhà, sửa giường chiếu, không được làm gì tác động mạnh đến giường ngủ của người mang bầu cũng là đề phòng bị sảy thai; người có bầu và chồng mình phải kiêng không được giết mổ gia súc, gia cầm (không được sát sinh); người mang bầu kiêng không được đi viếng đám tang hoặc có chuyện buồn để tránh làm ảnh hưởng không tốt và những chuyện không hay xảy ra với thai nhi …

Trong quá trình chăm sóc trẻ nhỏ, đồng bào có tục thờ Va (Mẹ Hoa) hay thờ Bà Mụ của người Kinh. Với người Nùng ở Bảo Ái, tục thờ Dá Va đã có từ rất lâu đời, Dá Va chính là đại diện cho người trông nom, cai quản trẻ em trong mỗi gia đình. Bàn thờ Dá Va của người Nùng được lập khi người mẹ mang thai đứa con đầu lòng được 7 tháng, gia đình sẽ làm lễ tạ bà Mẹ Hoa, khi ấy nhà ngoại đứa bé sau này sẽ mang sang một bàn thờ nhỏ chính là bàn thờ Dá Va. Mỗi gia đình chỉ lập bàn thờ Dá Va một lần và thờ suốt đời, những lần sinh con sau chỉ cần cắm thêm một bong hoa bằng giấy lên bàn thờ Dá Va để báo với bà về thành viên mới trong gia đình mình mà thôi. Trên bàn thờ của người Nùng không bao giờ thiếu bàn thờ Dá Va, được đặt thờ suốt đời chứ không giống như tục thờ mẹ Hoa của một số nhánh người Nùng ở nơi khác là chỉ thờ bà Mẹ Hoa tới khi đứa trẻ được 13, 14 tuổi. Khi đứa trẻ còn nhỏ (14 tuổi trở xuống), bất kể đi đâu xa, người nhà đều rút một chân hương từ bát hương thờ Dá Va mang theo, với ngụ ý là bà mẹ Hoa luôn đi theo, che chở và bảo vệ cho đứa bé được bình an. Tục lệ thờ Va của đồng bào cho thấy vai trò hết sức quan trọng của lệ tục, gắn bó chặt chẽ với quá trình nuôi dưỡng đứa trẻ. Điều này có thể hiểu, khi y học và khoa học chưa phát triển như hiện nay, việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ cũng như những vấn đề liên quan khác khá khó khăn và phức tạp, vị thần đỡ đầu cho trẻ nhỏ (bà Mụ) đã được tạo nên làm chỗ dựa tinh thần cho đồng bào.

Người Nùng ở Bảo Ái cũng có tục lệ gửi con nuôi, đó là khi bố mẹ đẻ cháu bé nhưng cháu bé lại hay ốm đau, chậm lớn… thì họ sẽ tìm một người bố mẹ nuôi cho cháu và nếu gia đình bố mẹ nuôi đồng ý họ sẽ làm lễ gửi con nuôi. Lúc này hai bên gia đình sẽ coi nhau như một. ngày lễ tết người con sẽ phải đi tết bố mẹ nuôi của mình và có trách nhiệm như với gia đình mình. Họ sẽ làm lễ cởi gửi khi người con chuẩn bị lập gia đình, cũng có những trường hợp họ không làm lễ cởi gửi vì tình cảm hai bên gia đình đã thân thiết và họ muốn duy trì mối quan hệ đó.

Ngoài những nghi lễ về trẻ nhỏ thì nghi lễ trong hôn nhân, người Nùng cũng có nhiều nét độc đáo. Trong quan hệ hôn nhân, người Nùng trọng tình nghĩa, ít có sự thay đổi trong hôn nhân. Từ những năm 1990 trở về trước, nạn tảo hôn ở đây diễn ra khá nhiều và phổ biến, cũng bởi nhận thức của nhân dân còn nhiều hạn chế, việc hôn nhân hầu hết đều là do cha mẹ sắp đặt. Nhưng trong thời đại ngày nay, khi mà nhân dân, nhất là giới trẻ được học hành và tiếp xúc với khoa học hiện đại thì việc hôn nhân đã được để cho đôi trẻ tự do tìm hiểu và quyết định. Việc hôn nhân được xem là việc trọng đại của con người nên bất kể đám cưới nào của người Nùng cũng được tuân thủ đầy đủ theo các trình tự: Buổi gặp gỡ đầu tiên, lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Một số nghi lễ quan trọng và gần như không thể thiếu trong nghi lễ hôn nhân của người Nùng như: việc xem ngày giờ trong hôn nhân phải do thầy Tạo xem và người nhà nhất định phải nghe theo nếu muốn tốt cho cuộc sống đôi trẻ và gia đình nên có những trường hợp đám cưới bị hoãn tới vài năm vì đợi ngày giờ tốt. Việc thách cưới của đồng bào vẫn tồn tại dù cũng đã có nhiều cải tiến không còn trọng về vật chất, ngoài ra đồng bào có tục giúp nhau khi gia đình có công việc, điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết làng xóm. Trong hôn nhân họ giúp nhau con gà, gạo, rượu hay tiền tùy theo hoàn cảnh mỗi gia đình, và gia chủ sẽ hoàn trả khi gia đình người kia có công việc. Ngày nay, với sự giao lưu giữa các dân tộc với nhau, hôn nhân người Nùng cũng được mở rộng hơn với các dân tộc khác và ở những nơi khác xa hơn. Đây cũng chính là một trong những lý do làm cho văn hóa truyền thống của dân tộc Nùng trong phong tục hôn nhân có nhiều nét thay đổi. bên cạnh đó, việc tuyên truyền về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc chưa được chú trọng, cộng với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế của người dân đã làm cho văn hóa truyền thống bị mai một.

 

Ảnh: Hát Phưn dân tộc Nùng, Yên Bái (Nguồn: sưu tầm)

 

Nằm trong quy luật sinh - lão – bệnh – tử, con người ai cũng một lần sinh ra, lớn lên và về cõi vĩnh hằng. Đồng bào quan niệm, bên cạnh thế giới của người sống còn tồn tại song song thế giới của người chết, giống cuộc sống của người trần thế. Vì vậy, khi gia đình có người vừa qua đời, dù nhà có của hay nghèo khó, ở bất kể tầng lớp nào, họ luôn luôn chu đáo trong lễ tang người thân với mong mỏi người thân của mình khi sang thế giới bên kia sẽ có cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc. Các nghi thức trong tang lễ của người Nùng ở Bảo Ái  trải qua rất nhiều bước và được thực hiện nghiêm trang. Trong số những tập tục ấy có những những nghi lễ mang  nhiều yếu tố thần bí, chưa được lý giải như nghi lế Hám Thản (sang than), lên đồng…  Trong nghi lễ đám tang đồng bào cũng có những kiêng kỵ rất khắt khe như:  Kể từ sau lễ nhập quan, mọi sinh hoạt trong gia đình có nhiều thay đổi, nhất là trong việc ăn uống như: trong gia đình không được ăn bún, hành lá vì họ cho rằng ăn bún và hành lá là ăn tóc người chết; Không ăn nội tạng của động vật vì như vậy nghĩa là ăn nội tạng của người chết; Không được ăn bầu, bí vì như vậy nghĩa là ăn óc người chết; Không được ăn mộc nhĩ vì ăn mộc nhĩ là ăn tai người chết, không được ăn thịt, không được dùng đũa khi ăn… Vì vậy, trong đám tang người nhà chỉ ăn sắn hoặc ngô luộc và đậu phụ. Việc ăn chay này được thực hiện ngay từ khi trong nhà có người chết, ba ngày sau đám tang người nhà làm lễ “ké chai” (bỏ kiêng) và lúc này con cháu người chết sẽ được ăn một bữa thịt, sau đó lại ăn kiêng đến ngày thứ bảy thì làm lễ “ké chai” lần hai rồi được ăn thịt, những thứ đồ ăn kiêng như trên vẫn tiếp tục kiêng cho đến khi mãn tang. Tập tục này hiện nay vẫn được lưu giữ, một số nhà do ăn uống quá kiêng khem, không đủ chất lại thương khóc mệt mỏi đã dẫn đến có người đột quỵ hoặc suy nhược nặng,… Không những thế, sau khi đưa ma, gia chủ còn phải kiêng kỵ một số thứ như: Gia chủ phải nằm đất có rải chiếu hoặc cót (là một loại chiếu được đan bằng lạt tre hoặc trúc) trong 40 ngày đêm sau khi đưa ma. Đàn ông trong nhà không được cạo râu, cắt tóc khi chưa qua 40 ngày, không được sinh hoạt vợ chồng khi chưa qua 100 ngày, không được đi dự đám vui khi chưa hết tang… Do cuộc sống ngày càng phát triển nên những nghi thức rườm rà cũng dần bị cắt bớt đi cho phù hợp với cuộc sống và chính sách của nhà nước. Tuy vậy, về cơ bản những nghi lễ chính của đồng bào vẫn được giữ gìn và thực hành trong đời sống hàng ngày.

Bên cạnh đó, đồng bào Nùng ở Bảo Ái cũng có những phong tục thờ cúng vẫn còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong cuộc sống như: thờ tổ tiên, thờ tổ sư nghề, thờ thổ công… Những tín ngưỡng thờ cúng này xuất phát từ tâm thức của đồng bào về niềm tin vào thánh thần, các lực lượng siêu nhiên khi mà con người chưa lý giải được các hiện tượng thiên nhiên trong cuộc sống. Tín ngưỡng thờ cúng của đồng bào không hẳn là yếu tố mê tín dị đoan mà đây chỉ là một nét văn hóa tồn tại từ ngàn xưa khi con người ta còn sống dựa và phụ thuộc vào thiên nhiên và suy nghĩ của đồng bào “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Tín ngưỡng thờ cúng hiện nay vẫn ảnh hưởng khá sâu đậm trong đời sống của đồng bào, tạo nên sự khác biệt trong văn hóa của dân tộc Nùng với các dân tộc khác.

Trải qua sự  thay đổi của thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, những phong tục truyền thống của người Nùng ở Bảo Ái cũng bị mai một nhiều. Sự ảnh hưởng của chính sách Nhà nước đã làm thay đổi không nhỏ đến việc giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc. Bởi chính sách chồng chéo, hoặc chưa có chính sách riêng cho từng vùng, từng dân tộc nhất định nên chưa phát huy được hết hiệu quả. Bên cạnh đó sự hiểu biết và ý thức bảo tồn của người dân chưa cao, cùng với sự hời hợt trong công tác quản lý của một số cán bộ cơ sở cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa truyền thống của dân tộc.

Văn hóa được hình thành cùng với sự phát triển của các dân tộc, là một yếu tố cấu thành một quốc gia, vì vậy văn hóa là nét đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt giữa các quốc gia dân tộc, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển đối với mỗi quốc gia dân tộc qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau.

Văn hóa Việt Nam là một dòng chảy bất tận, nó tạo nên sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước. Các thế hệ người Việt Nam hôm nay đang hòa mình vào dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp cận sâu hơn, rộng hơn với những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước những cơ hội, cùng những thách thức lớn trong việc gìn giữ và phát triển để nhân lên mạnh, bản lĩnh của một nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là một vấn đề hết sức quan trọng. Văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc thể hiện bản sắc và những tinh hoa mà ông cha ta gìn giữ qua hàng ngàn năm lịch sử. Đất nước chúng ta có phát triển tốt và bền vững hay không, có trở thành một đất nước giàu truyền thống hay không phụ thuộc rất nhiều vào thế hệ trẻ tương lai của đất nước trong việc giữ gìn văn hóa truyền thống.

Dân tộc Nùng là một dân tộc thiểu số mang nhiều nét văn hóa đặc sắc, hòa cùng với sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ hội nhập, nền văn hóa của người Nùng nói chung và người Nùng ở xã Bảo Ái, huyện Yên Bình nói riêng luôn gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp nhằm góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Ban chấp hành trung ương Đảng (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.

2.Ban chấp hành Trung ương Đảng (1998), nghị quyết về phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.

3.Ban chấp hành Trung ương Đảng (2003), Hội nghị lần thứ bảy (phần II) Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.

4.Ban chấp hành Trung ương Đảng (2004),Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Hà Nội.

5.Ban chấp hành Trung ương Đảng (2004), Kết luận hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, Hà Nội.

6.Ban chấp hành Trung ương Đảng (2006), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.

7.Ban chỉ đạo Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam (2010), Cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.

8. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Hà Nội.

9.Đỗ Thúy Bình (1994),Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

10.  Nông Minh Châu (1973), Dân ca đám cưới Tày Nùng, Nxb Việt Bắc.

11.  Bế Viết Đắng, Khổng Diễn, Phạm Quang Hoa, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Anh Ngọc (1992), Các dân tộc Tày Nùng Ở Việt Nam, Viện Dân tộc học xuất bản.

12.  Lê Minh Hạnh (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật.

 

 

 

____________________________

[*] Lớp Cao học k1 – Chuyên ngành Quản lý văn hóa